RSS

[Truyện ngắn] Thú

[Truyện ngắn] Thú

 

(Truyện ngắn của Phạm Thuý Quỳnh)

Trời hôm nay lại nắng, độc địa, chói chang, xối suốt cánh rừng, ngay cả những tán lá ken dày cũng héo úa cả. Bên bờ suối, mấy con nai tranh nhau uống nước, đám thú quây quần hòng hưởng chút hơi mát hiếm hoi.

Bây giờ, ở Bụng Rêu bỗng có tiếng kêu khe khẽ vang lên. Một nhúm lông ngắn đương cựa quậy trên thảm rêu mềm, đến gần mà xem thì hoá ra đó là một con khỉ mới sinh gầy yếu. Nó nhăn mặt tỏ ra không hài lòng.

Bên cạnh, mùi thối rữa chẳng che đậy được cứ thế xộc lên, xác khỉ mẹ đang dần rữa nát do trời thiêu đất đốt, từng mảng lông bong tróc khỏi da thịt để lộ những vết cắn nhung nhúc giòi. Giống ruồi nhặng quen mùi kéo bè kéo cánh lao vào xác chết tranh thủ nếm náp dinh dưỡng và sinh sản. Đôi lúc, chúng còn mon men ghé mắt nhìn sang con khỉ con xấu số. Đám kiến kênh cang từng mẩu thịt con con về tổ, vừa đi vừa chụm đầu vào nhau bàn bạc điều gì đó. Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 6, 2017 in Truyện ngắn

 

“Ngôn ngữ” – W. S. Merwin

Ngôn ngữ

Một số từ nhất định trong tri thức của chúng ta chúng ta sẽ không dùng đến nữa, và chúng ta sẽ không bao giờ quên. Chúng ta cần chúng. Như mặt sau của bức tranh. Như cốt tủy của chúng ta, và màu trong huyết mạch của chúng ta. Chúng ta chiếu chiếc đèn bão của giấc ngủ của mình lên chúng, để đảm bảo, và chúng ở đó, run rẩy chờ ngày làm chứng. Chúng sẽ được chôn vùi cùng chúng ta, và trỗi dậy cùng những người còn lại.

W. S. Merwin, “Language,” The Book of Fables (Copper Canyon Press, 2007).

Copyright © 2007 by W. S. Merwin | Nguyễn Huy Hoàng dịch.

Nguồn “Ngôn ngữ” – W. S. Merwin

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 7, 2017 in Sùng vũ môn

 

Haruki Murakami: Vậy thì tôi nên viết gì đây?

Nguồn Haruki Murakami: Vậy thì tôi nên viết gì đây?

 
2 bình luận

Posted by trên Tháng Bảy 12, 2017 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Lưỡng cực

0d305ed8681ea8b18d9c4ad738b3412344ce01b8c7d5-ULxhhf_fw658

 

Khi cơn hưng cảm ập tới, bạn ngồi trước máy tính và làm việc liên tục trong 48 tiếng đồng hồ với tốc độ gõ chữ là 500 từ một phút, tốc độ các ý tưởng lướt trong não nhanh gấp đôi bình thường. Bạn viết, viết và viết, trong không gian của những quánh đặc đen đúa tâm hồn và thảm bại cảm xúc, bạn bấu vào từng nếp chữ như muốn nuốt trọn chúng. Một cuốn tiểu thuyết sáu vạn chữ dần hình thành, cuốn tiểu thuyết với độ dài mà bạn từng mất một năm để viết. Âm thanh bàn phím như tiếng mưa rào lướt qua ngoài cửa sổ. Bạn biết, trong bóng đêm đấy, lũ quỷ ma, những kẻ giết người, những kẻ đáng chết đang ẩn nấp. Màn hình máy tính giờ chi chít chữ. Cơn hưng cảm qua đi. Bóng đêm hút bạn trở lại. Bạn đưa con trỏ tắt máy, bản thảo vĩnh viễn không được lưu. Con dao nhỏ mỏng như lá lúa cứa ngọt, bạn nhìn dòng máu đỏ rỏ từng giọt, giống như nước mắt trên gương mặt khi bạn còn biết khóc. Giờ đây máu thay bạn khóc, bạn rạch dọc theo đường động mạch cổ tay, máu thấm vào từng kẽ bàn phím. Không ai còn có thể kéo bạn ra khỏi cái chết, bạn hạnh phúc vì điều đó.

 

(Phạm Thị Thuý Quỳnh)

 

“Gửi người đọc tôi” – Jorge Luis Borges

Nguồn “Gửi người đọc tôi” – Jorge Luis Borges

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tư 21, 2017 in Sùng vũ môn

 

[SVM] Phụ lục: Ánh dương tàn

1392ba5509a6753cf8d87197102f43fcc0f4d7cb4b4ec-lvn8ua_fw658

(Phụ lục Sùng Vũ Môn: Ngoại truyện “Ánh dương tàn”)

 

1.
Mùa hè, năm thứ 6 Thái Hoà.

Trời nắng to, đất khô nứt nẻ báo thêm một bận tai vạ. Tuy rằng lúa vẫn kết hạt song thu hoạch sút giảm, nếu như mọi năm, một mẫu thượng thượng có thể thu về hơn một thạch lương thì nay đã vơi mất một nửa.

Ngoài kia, dân thường đã chạy ngược chạy xuôi tìm đường sống thì bây giờ trong triều đình cũng loạn chẳng kém gì. Trên ngai vàng, đôi mắt non trẻ của Hoàng đế vẫn hướng về phía bá quan, ngồi yên chẳng nói chẳng rằng. Sau lưng ngài, Thái hậu bấu chặt tay vào thành ghế phụng, ánh mắt lạnh lùng đưa xuyên qua lớp rèm châu, gằn giọng:

– Có chăng Thái uý nên xem xét lại, họ Đàm kia chỉ tham lấy chút tiền, tuy rằng đáng phạt, nhưng chỉ cần cắt bổng lộc nửa năm là được. Đằng này khanh lại muốn xử giảo[1], phải rằng hơi quá không? Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Hai 12, 2016 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Chót đời

unnamed

(Minh hoạ của hoạ sỹ Lê Trí Dũng – HNMCT)

Lão Niệm đi đi lại lại trong nhà, nhìn lên nóc nhà đã thủng vài chỗ, lại nhìn bốn vách tường trét đất đến hồi tu sửa, nhìn đông, rồi nhìn tây. Và tự dưng lão thấy căn nhà sao mà mạt quá, dù từ khi giải phóng tới giờ, lão sống ở đây cũng đã gần nửa cuộc đời. Lão bồn chồn, ngả lưng xuống chiếc phản cứng quèo, vắt tay lên trán, nghĩ về giọng khẩn nài của thằng Thắng con mình khi đánh điện thoại từ trên thành phố xuống nhắc lão bán đứt cái mảnh đất này rồi cầm tiền lên để hưởng sự đoàn tụ với con cháu. Thực ra, lão cũng đã tính từ lâu rồi, mình thì sắp chết, mảnh đất này ngoài căn nhà ọp ẹp với một mảnh vườn, cái ao cùng cái chuồng lợn, chuồng gà nuôi cho đỡ tiền ăn thì nào có gì. Thời kinh tế thị trường, như lão cũng tính là mạt rệp rồi, người nào người nấy chê ỏng chê eo. Lần này con lão vừa có việc làm tốt, vừa lấy được vợ, vừa có hộ khẩu trên thủ đô, lão sẽ chong mắt xem ai dám nói gì mình nữa.

Lão Niệm cười khì khì, mò dậy, tháo chiếc chiếu cói đầy những con rệp ra ngoài sân, đứng dưới nắng mà rũ cho sạch. Lão nhón lấy một con đương bò trên cánh tay, đưa ra trước mặt và nói:  “Ông tống tiễn cho mày.” Rồi lão nhấn chết nó, máu bung ra trên đầu ngón tay, đỏ tươi. Lên thành phố, lão sẽ thôi bị đám rệp quấy nhiễu, dù không phủ nhận được rằng trong suốt những ngày tháng mồ côi, lão chỉ có chúng làm bạn.

Lúc quay lại thì trông thấy bà Bôn hàng xóm, lão bảo:

– Lần này thì tôi lên thành phố nhớ, cho biết mặt, cho biết mặt.

– Vâng, cũng mừng cho nhà bác! – Bà hàng xóm cách giậu mồng tơi của lão bĩu môi, buông một câu chúc chua loét.

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 19, 2016 in Sùng vũ môn

 
Album ảnh

Nghĩ về chuyện viết văn

“Một trong những điều tôi biết về viết văn là như thế này: Tiêu hết dùng hết, thực hiện điều đó, chơi đùa với nó, đánh mất nó, tất tần tật, ngay lập tức, lần nào cũng thế. Đừng có để dành cái gì có vẻ như hay đẹp cho mai sau trong quyển sách, hay để dành cho quyển sách khác;”

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 19, 2016 in Sùng vũ môn

 

“Đời tư của một nhà văn” – Roberto Bolaño

“Đời tư của một nhà văn” – Roberto Bolaño

“Đừng đạo văn, trừ khi muốn bị treo trên quảng trường công cộng. Mặc dù những kẻ đạo văn ngày nay không bị treo cổ. Trái lại, chúng nhận được học bổng, giải thưởng, công việc văn phòng, và, trong trường hợp may mắn nhất, chúng trở thành những best-seller và những lãnh tụ ý kiến. Một cụm từ kỳ dị và xấu xí: lãnh tụ ý kiến [líder de opinión]. Tôi đoán nó nghĩa là kẻ chăn cừu, hay lãnh đạo tinh thần của đám nô lệ, hay thi sĩ quốc gia, hay quốc phụ hoặc quốc mẫu, hay gã dượng của đất nước.”

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 24, 2016 in Sùng vũ môn

 

Richard A. Posner: Về đạo văn

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 12, 2016 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Quan tài đất sét

2b95c3ff541bf0e2de9833e5183a408619cebfd917292-Vxs2wU_fw658.jpg

 

(Truyện ngắn Phạm Thị Thúy Quỳnh)

 

1

 

Năm bạn ra đời, nghe nói bố của bạn đã bỏ đi. Mẹ bạn ôm con về nhà ngoại, rồi cũng đi làm xa, ba năm về một lần, mỗi lần về mua cho bạn hai bộ quần áo và năm hộp sữa Ông Thọ, đó là quy tắc bất di bất dịch. Bạn ở với ông bà ngoại trong một xóm nhỏ, cũng thường xuyên chuyển nhà nên thực sự không nơi nào gây ấn tượng với bạn quá lâu. Sáu tuổi bạn được gửi xuống thị trấn học, sống nhờ nhà một người quen cũ của bà.

 

Tháng năm, lưng nắng kéo dài rồi lọt vào trong căn phòng. Bạn đang vo viên hòn đất sét, nặn một chiếc hộp vuông, cẩn thận nhét những con mối béo núc ních vào trong và phong kín lại. Ấy là quan tài mà bạn làm cho chúng, học theo câu truyện cổ, rằng ngày xưa mỗi khi cha mẹ già đi, con cái sẽ đưa họ vào sẵn huyệt mộ đã bít kín một nửa. Hằng ngày, sau lúc mang thức ăn tới, họ sẽ lấp thêm một viên gạch vào đó. Cho tới khi nào hết khoảng trống cũng là lúc người trong huyệt bó tay chờ chết.

 

  • Nhà nó gửi tiền tháng này xuống chưa? – Người chồng lên tiếng hỏi.

 

Người vợ ngồi trước gương, cầm hộp phấn trang điểm trên tay, đáp:

 

  • Gửi rồi, một triệu, đủ cho hai tháng.

 

Người chồng hắt chậu nước xà phòng rửa bát ra sau vườn, càu nhàu:

 

  • Bảo với ông nó là tiền đấy chỉ đủ thuê nhà thôi, còn cả ăn uống vệ sinh thì cũng phải một triệu một tháng!

 

  • Nhưng mà chỗ quen biết…

 

  • Quen biết thì quen biết, nó ăn học ở nhà mình thì phải chịu, cả nể to bụng! – Người chồng gắt, ôm con gà chọi trong chuồng thả ra sân.

 

Lại lắng tai nghe cuộc trò chuyện. Ngày ấy bạn còn nhỏ, bạn chưa biết hai chữ “cả nể” có ý nghĩa thế nào. Bạn chỉ biết rằng hồi đó thịnh dùng loại tiền xu, đóng theo từng cọc một. Hằng tháng, ông bạn lại gửi xuống đây ba tới bốn cọc tiền như thế, loại năm ngàn đồng. Bạn chờ những đồng dư ra, nếu có nó, trong bát cơm của bạn sẽ có thịt.

 

Bạn lẩm nhẩm hát những câu hát không vần không điệu, hít hà mùi đất sét. Ấy là một thứ mùi ngòn ngọt, ngai ngái, giống mùi bãi tha ma. Hé cửa sổ nhìn ra bụi chuối phía đối diện, bạn chưa từng tới nghĩa địa, nhưng từ tiềm thức dường lờ mờ đoán định được.

 

Người vợ thấy phòng bạn bừa bộn, hậm hực bước vào, quăng chiếc chăn ra một bên. Bạn lùi lại, co mình vào trong góc tường, hé mắt len lén nhìn chủ nhà. Người vợ nhìn bức tường trắng đầy những vết cáu bẩn do bị đất sét quệt lên. Cô quắc mắt lườm bạn và mắng:

 

  • Quân ăn hại, chỉ có bầy bừa là giỏi!

 

Bàn tay bạn siết chặt lại khiến chiếc “quan tài” trong tay nát bấy, đám mối béo núc cũng vỡ ra. Thực ra ngày trước người vợ không dữ dằn như thế… Bạn tự an ủi. Bởi mỗi lần người thân của bạn – Hoặc mẹ, hoặc ông – tới đây, cô đều đon đả tươi cười và cư xử với bạn rất dịu dàng, kể cả người chồng kia cũng vậy. Bạn là một người rất rõ ràng, đều nhớ những ai tốt với mình và mang ơn họ, (tất nhiên) và ngược lại. Bạn lí nhí xin lỗi. Cô thở dài làu nhàu thêm vài câu rồi ra khỏi nơi này.

 

Người vợ đi rồi, bạn lại rón rén bò ra, đẩy chiếc chăn xuống đất. Ngồi bên cửa sổ, bạn nghiêng đầu nhìn con tò vò mới cắp chú sâu xanh về tổ. Đàn kiến đen làm nhà ở góc tường, chắc trời sắp mưa nên chúng vội vàng cõng trứng di dời chỗ ở. Kiến chuyển nhà sao? Trong lòng bạn cảm thấy tiếc nuối cùng cực. Bạn lấy cây thước kẻ chặn đường của chúng, không cho chúng bỏ đi. Nhưng khi vật ấy nện xuống cũng là lúc đám kiến xấu số mất mạng, đám còn lại chạy toán loạn. Bạn càng xuống tay càng dạn bạo. Nhiều năm về sau, khi nhớ lại chuyện này, bạn cho rằng cái ác thuộc về bản chất của mình. Bạn là một con quỷ khát máu.

 

2

 

Ta tìm thấy bạn sau một khoảng thời gian chưa gặp lại, thế là bèn thiết lập một cuộc hẹn. Bạn hiện sống ở trong một căn hộ yên tĩnh, biệt lập, và – có lẽ – cả cô độc nữa. Ta gõ cửa, bạn mời ta vào nhà. Thứ đầu tiên ập vào mắt ta chính là bóng tối, bóng tối tràn ngập muôn nẻo, nhấn chìm nơi đây, giống như bị hút vào một hũ nhựa đường dẻo dính quánh đặc.

 

Bạn bật điện lên, ánh sáng rọi trên làn da trắng xanh và đôi mắt thâm quầng. Ta phì cười, trêu:

 

  • Cũng chung một bệnh Đan Thiềm.

 

Bạn mở miệng, khẩu hình cứng ngắc, dường lâu rồi chưa đối thoại với ai, cười lại:

 

  • Suy diễn.

 

Ngoài trời đang mưa, sấm chớp cùng nhau xướng họa, có nhiều người hoảng sợ, riêng ta và bạn là thích thú. Trong không khí nóng bức của mùa hè mà bất chợt có được một khắc se lạnh thế này thì thực đáng quý chừng nào. Bạn rót ca cao nóng vào cốc của ta, trong đó cho rất nhiều sữa, ngọt, sánh. Rồi bạn ngồi xuống với một tách cà phê đen, loại không đường đắng ngắt, nhấp một ngụm trước khi lật giở trang sách trên tay.

 

Ta hỏi:

 

  • Dạo này cô đang làm gì?

 

  • Vẫn như cũ, viết cho một số tạp chí để sống qua ngày và hoàn thành cuốn tiểu thuyết của riêng mình. – Bạn nhấn mạnh hai chữ “riêng mình”.

 

  • Lại đào bới. – Ta bật cười nâng cốc làm động tác cạn chén.

 

Bạn cũng mỉm cười, chạm tách cà phê vào cốc ca cao, động tác hơi mạnh, vẻ như bạn hơi kích động khiến vài giọt nơi bạn chan hòa vào giọt nơi ta. Sét đánh đùng đoàng ngoài kia, tiếng gào thét của mưa xé rách bầu trời. Bạn hờ hững nhìn ô cửa sổ nhỏ luôn luôn đóng kín. Ta quan sát xung quanh, tất cả chỉ có một màu nâu và xám, thảng hoặc chỉ có vài tờ giấy nhớ mỏng manh dán trên tường là có đủ màu sắc khiến không gian bớt ảm đạm. Phòng bạn sực mùi cà phê và mùi thuốc bắc. Ta nhìn cốc thủy tinh đã két vành nâu không thể cọ rửa sạch, hỏi:

 

  • Vẫn còn điều trị sao?

 

  • Thi thoảng vẫn đau đầu, vậy là lại dùng thuốc, đỡ thì bỏ. – Bạn lật trang sách, vừa đọc vừa nói với giọng bình thản.

 

Ta thở dài:

 

  • Nên ra ngoài nhiều hơn.

 

Bạn chăm chăm nhìn ta, bảo:

 

  • Ra ngoài thì sẽ phải uống rượu.

 

  • Sao lại thế?

 

  • Con người nhòe nhoẹt lắm, uống vào mới thấy rõ được. – Bạn nhướng mày.

 

Ta nói:

 

  • Thời đại này thật nhàm chán, tôi chỉ ước gì mình được sinh ra ở thời trước, rốt ráo hơn, cuồng nhiệt hơn.

 

  • Tình trạng thừa mứa. – Bạn cười khì, ngả lưng ra ghế. – “Ai ai cũng là người khác.”

 

  • Vẫn đọc Thiệp à? – Ta lại hỏi.

 

  • Không nhiều nhà văn được như Thiệp.

 

 

Bạn đứng dậy, kéo rèm cửa sổ lại, bật điều hòa lên. Không khí thêm lạnh, bạn khoác một chiếc khăn voan mỏng, kết hợp với bộ trang phục cổ cách điệu do nhóm phục hồi phong khí cổ mới phất gần đây may ra, ta tưởng bạn như bước ra khỏi mây khói thời Trịnh – Nguyễn.

 

Ta hơi ngẩng đầu để nhìn bạn cho rõ hơn. Bạn bật cười hỏi ánh mắt của ta có ý gì. Ta đáp rằng dù quen biết bạn bao nhiều năm cũng vẫn thấy bạn kỳ quặc như vậy, dường như bạn sinh ra không phải dành cho thế giới này, ông trời đã nợ bạn quá nhiều rồi. Bạn lại bảo trời không nợ bạn, là nghiệp quả do bạn tự tạo ra, ít nhất bây giờ, khi phơi bày mọi thứ trên trang giấy, bạn đã có thể thanh toán từng món nợ.

 

  • Sao không dọn về nhà?

 

Bạn bảo nơi đây rất thoải mái, chỉ cần là một nơi yên tĩnh, không cần phải ra ngoài quá nhiều, không cần ai để ý tới mình. Bạn có thể thức qua đêm để viết, sau đó ngủ tới trưa và thức dậy với đôi mắt thâm quầng mà không ai kêu ca phàn nàn gì cả. Bạn có thể nằm thoải mái trên chiếc giường của mình, bò nhoài trên sàn gỗ, chứ không cần phải khép nép trốn tránh vào một góc nữa. Bạn chỉ cần có vậy, tự do, và tự do. Bạn mệt mỏi với cuộc sống gò mình trước đây, luôn luôn cảnh giác và chưa thôi cảnh giác. Ta bảo bạn bị mắc bệnh tâm lí. Bạn ôm cốc cà phê vào lòng, cười nhợt nhạt:

 

  • Có lẽ thế, tôi là một con bệnh, một kẻ tạo phản, từ khi sinh ra ai cũng đã nhìn thấy dòng máu tạo phản này nên họ buộc phải trói nó lại.

 

3

 

 

Bạn còn nhớ rất rõ những tiếng trống trường, tiếng nào tiếng nấy đanh và khô gọn, ác cằn giống cái nóng mùa hè bây giờ. Mỗi khi lớp học tan, toàn bộ khu vực này trở nên hỗn loạn như gặp phải trận khủng bố nào đó, ngoài sân người nêm kín người, tiếng bố mẹ gọi tìm con cái cứ thế vang lên. Bạn gục đầu trên bàn, chờ cho mọi người đi hết, chờ cho tất cả im ắng thì mới rời khỏi lớp học.

 

Cổng trường đã được bảo vệ khóa lại. Nhưng không sao, bởi ngay phía sân sau, nơi trồng hai hàng xoan rợp bóng, và bên cạnh nhà vệ sinh có một cái lỗ nhỏ vừa cho bạn chui lọt. Không rõ là ai đã đào phá chỗ này, bạn cũng chẳng quan tâm.

 

Bạn còn nhớ rất rõ mùi cống, mùi nước tiểu, mùi xú uế của rác và xác động vật. Bạn tưởng tượng trên cây xoan có con quỷ đương ngồi vắt vẻo, hoảng sợ chui tuột qua cái hốc ấy, chạy đi.  Ngoài kia là đường lớn, chỉ cần rẽ phải là về tới nhà trọ. Bạn phủi phủi lòng bàn tay bám đầy đất đỏ, chật vật đứng lên, chạy như bay. Nắng xối tràn trên đỉnh đầu khiến óc bạn dức buốt cả lên, nhưng bạn cũng mặc, bạn sợ con quỷ kia sẽ tóm được mình. Phải trốn đi, phải trốn vào nơi nào để nó không tìm thấy được. Thế là bạn ruổi một mạch về phòng và rúc vào tủ quần áo.

 

Những ngày khó khăn khi sinh sống tại một nơi ở khác chỉ làm khó bạn trong một, hai tháng đầu. Sau này mọi chuyện dường như dễ dàng hơn, bạn đã học được cách im lặng, và nói sao để gia chủ cảm thấy thoải mái nhất. Nhà hàng xóm có một đứa bé gái độ năm, sáu tuổi, bạn không nhớ rõ lắm.

 

Đứa bé ấy tên Phương, nhỏ nhắn, tóc hơi loăn xoăn và có cái miệng chúm chím. Đứa bé ấy có lẽ là người bạn duy nhất trong suốt thời thơ ấu của bạn. Bố nó làm thợ mộc, còn mẹ làm y tá, thường xuyên không về nhà do bệnh viện thiếu người. Bạn ngưỡng mộ hình mẫu gia đình như vậy. Bố đứa bé hình như không tỏ ra ác cảm, để cho bạn tới chơi với con gái mình và hình như rất quý bạn.

 

Tháng tháng, hễ có tiền lẻ, bạn sẽ mua cho Phương một nắm kẹo cứng. Nó cũng không ngần ngại mà tỏ ra thân thiết. Trong thâm tâm bạn luôn sợ hãi, bạn sợ nó sẽ bỏ đi mất như đám kiến kia. Thế là nếu như không có tiền lẻ, bạn cảm thấy khổ sở vô cùng.

 

Trận đòn đầu tiên mà bạn chịu là vào ngày mùng ba tháng tư (Bạn còn nhớ rất rõ vì hôm ấy đã được chép vào nhật ký) người vợ bị mất chiếc đồng hồ đeo tay, cô túm tóc bạn ra và dúi xuống đất:

 

  • Mày bán đồng hồ của tao đi rồi phải không?

 

Kỳ lạ ở chỗ, bạn vẫn im lặng, mắt trừng trừng nhìn cô. Một cái tát như trời giáng khiến bạn hoa mắt và trên má bạn nở xòe một đóa hoa đỏ thẫm như máu. Bạn vẫn không khóc, không thanh minh, chỉ cắn răng chịu đựng. Có lẽ ngay từ đầu người vợ đã nhận ra sự ương ngạnh của bạn, và điều này làm cô tức tối.

 

Thấy bản thân lỡ tay, người vợ có vẻ hốt hoảng, bỏ đi, miệng vẫn không ngừng thóa mạ. Nghe đâu sau này người chồng tìm được vật ấy ở trên nóc tủ. Nhưng dù sao cũng đã không còn quan trọng nữa rồi.

 

Bạn còn nhớ rất rõ một đêm mùa đông, người chồng bị tai nạn phải nhập viện, vì vậy người vợ cũng phải túc trực ngay bên. Để lại bạn ở trong căn nhà lớn này với một con chó, hai con gà, một đàn kiến, một tổ tò vò. Thời tiết rất lạnh và bạn sợ, bạn sợ con quỷ trên cây xoan có thể nhảy bổ ra bất cứ lúc nào. Rồi bạn khóc, hốt nhiên bạn lại khóc, bạn ý thức được từ “một mình” là như thế nào. Bạn gào khản cả cổ, thậm chí còn đánh thức một vài nhà kế sát dậy. Đèn điện bật sáng, tiếng chửi thề cứ thế đập vào tai bạn. Nhưng một khi đã rơi nước mắt thì làm sao ngừng lại được đây?

 

Có tiếng đập cửa, bạn co mình thút thít. Giọng người đàn ông vang lên, đó là bố của đứa trẻ nhà hàng xóm. Bạn từng bảo bạn là người phân định rạch ròi ân oán, nên rất tin tưởng yêu quý ông ta. Tiếng ông khẽ khàng khuyên vỗ, bạn chần chừ mở cửa ra. Nụ cười quái quỷ vạch trên gương mặt đầy những nốt sẹo rỗ ấy hằn sâu vào ký ức của bạn. Bóng người đàn ông cứ kéo dài, kéo dài mãi, phủ lên người bạn. Và khi cơ thể bạn bị quăng vào góc tường, bạn đã không còn nhớ những gì xảy ra tiếp theo nữa.

 

Trên trần nhà, con thạch sùng nhìn bạn, hình như đang cười nhạo, lưỡi nó đánh “tách” – kéo một con muỗi xấu số vào miệng và bỏ đi.

 

 

***

 

  • Cao Hành Kiện từng nói thế này: “Tuổi thơ xa xôi, như mù như khói, chỉ nổi lên trong ký ức nhiều điểm sáng…” – Bạn kể xong và nhoẻn miệng cười.

 

Ta hỏi rằng bạn có còn đau không? Bạn lắc đầu, bảo đó không phải cuộc đời của bạn, chỉ là kiếp trước. Bạn mong thời thơ ấu bị chôn vùi hoàn toàn, không muốn bới móc nó lên nữa. Ta nói:

 

  • Chẳng phải đã bới móc lên rồi đó sao? Sau này có gặp lại được không… Bố cô ấy.

 

Bạn gật đầu, khuấy cà phê, cà phê đã nguội, bạn đứng dậy đổ đi rồi pha tách mới:

 

  • Đóng sẹo ngay khi vừa bị thương, nên không gì có thể làm nó bật máu nữa.

 

Lại một nụ cười chua chát, bạn bảo tay bạn giờ vấy chàm, phải đào lộn lên. Bạn không còn vọng tưởng cứu rỗi nhân loại, bạn chỉ tự cứu mình. Sự xuất hiện của cơn mưa hôm nay, sự xuất hiện của ta đã khiến cơn ác mộng ấy trở lại. Bạn đang tìm phương thức biểu đạt lạnh lùng nhất, không xen tình cảm của mình vào đó, chỉ ghi chép lại. Rồi bạn đưa cho ta một xấp giấy. Ta hỏi:

 

  • Cái gì đây?

 

  • Lời thú tội. – Bạn mỉm cười – Cho một tuổi thơ không sạch sẽ.

 

  • Đừng nói nữa. – Ta ôm đầu.

 

  • Tôi mệt rồi, phải kết thúc đi thôi. Sao cô mãi không cho tôi chết?

 

  • Bỏ cái thứ triết lý vụn đó đi. – Ta gắt.

 

Bạn cười sằng sặc, tiếng cười ngày một lớn dần, căn phòng nghiêng ngả. Trời đất quay cuồng như muốn đổ sụp. Ta bỗng nhớ về quãng thời gian rất xa rồi, ngày bắt đầu đặt chân vào căn nhà toàn những con người xa lạ đó. Từ những bước tính toán đầu tiên của tạo hóa, thảy đã phải gánh lời nguyền rủa ác nghiệt.

 

Bạn là ta, ta là bạn. Phải không? Không phải! Ta bảo bạn đừng cười nữa. Nhưng bạn không nghe lời. Bạn nói bạn đã kể hết rồi, đã xuất hiện sau bao năm bị ta chôn vùi, việc đã hoàn thành, giờ thì nên tự kết liễu. Dứt lời, bạn đứng dậy và bước về phía ta. Khi đôi bên gặp nhau, bạn và ta lập tức chan hòa.

 

Ta thẫn thờ nhìn quanh căn phòng màu xám, cầm xấp bản thảo lên và đi vào trong bếp. Một mồi lửa, tất cả đều tan thành mây khói – Quá khứ của ta, ký ức của bạn. Ta gạt tro tàn vào sọt rác rồi bước ra khỏi đây. Trong nháy mắt, mọi thứ đều đã biến mất. Ngoài đường, xe cộ qua lại tấp nập, ánh nắng phủ dài làm nhoáng lên muôn vàn màu sắc. Thanh toán xong rồi… Ta thở phào một hơi nhẹ nhõm, chợt cảm thấy mọi việc được phơi bày cũng là một điều tốt. Sau cơn mưa, cầu vồng kéo một đường cung dài khoe ra bảy sắc chan hòa giữa vòm không xanh vời vợi./

Đà Giang – 14/6/2016

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Sáu 16, 2016 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Thiên thu

(Bản đã chỉnh sửa so với bản in sách)chùa

 

“Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”

– Nguyễn Du –

 

 

1.

 

Lê Long Đĩnh nâng chén rượu nồng còn đượm ánh trăng trong soi tỏ, ngóng chờ hoa nở, dốc cạn cả tấm lòng. Hơi rượu nóng xộc lên, đánh thẳng vào lục phủ ngũ tạng, cay đến mức mong ngài chảy nước mắt. Ánh trăng kia, ngàn năm trước mày có bi lương thế này chăng? Lê Long Đĩnh nở nụ cười rầu rầu, bao năm nay vẫn nụ cười ấy, thiên hạ ai người hiểu cho?

 

Từ khóe mắt Đĩnh, trào ra đôi dòng huyết lệ, máu đỏ sẫm rỏ xuống, tưới thẫm cả đóa hoa mới lìa đời. Cạn bình rượu cúc, người vẫn chưa say. Phải làm sao mới có thể say đây? Đôi khi tỉnh cũng là bi kịch của kiếp người.Vết thương tai ác trên lưng ngài bắt đầu dở chứng, giống như loài quỷ hút máu không ngừng táp từng miếng vào thịt da.

 

Dường có tiếng gọi vọng: “Nàng Hương! Ra múa hầu vua!”. Vũ nữ xứ Chiêm thấy có người sai bảo, bèn đứng dậy, hít sâu một hơi rồi tha thướt thả bước, vòng bạc trên cổ tay vang lanh canh nghe lạnh buốt. Đây vùng cát trắng mênh mông bỏng rẫy, đây xứ cát bí ẩn vạn năm, đây tháp thiêng buồn rầu nghìn năm, thảy trải ra trong tiếng hát mượt mà và vũ khúc bí hiểm của nàng.

Read the rest of this entry »

 
 

[Tản văn] Man mác cổ thành

tuyên.jpg

 

Hưng vong triều đại tan làn khói,

Kim cổ tang thương lạnh kiếp tro.

(Qua hồ Tây Thăng Long – Đại Ẩn Am)

 

Đây Thăng Long – tòa thành cổ – ánh nắng ngã dài trên đình đài lầu các, phủ lấp biết mấy bể dâu. Đây Thăng Long – tòa thành cổ – nơi bị cuộc sống hiện đại và đô thị caô lập, xâm chiếm, hiểu rằng mai đây mình sẽ bị lịch sử quên lãng. Nghìn năm như giấc mộng kê vàng, vẫn còn tưởng thời gian trôi qua chậm rãi, dè đâu ngoảnh lại, nét vàng son thuở xưa đã tan.

 

Tôi tin vào nhân quả luân hồi và duyên phận. Bởi vậy, khi đứng trước tòa Hoàng thành từng chứng kiến bao bĩ cực thái lai này, luôn có cảm giác ai đang thì thầm bên tai, kể lại lịch sử và huyền tích chốn đây, cũng thuật lại sự thảng thốt của vạn lớp người trước cơn nguy biến của hơn trăm năm về trước. Chạm tay vào tường thành, để cảm giác lạnh lẽo xuyên suốt thịt da, dường bị đẩy ngược về quá khứ xa xôi, mơ hồ thấy tiếng bước chân lính túc vệ qua lại, cũng mơ hồ thấy bóng dáng của một vị quân vương đang phẫn hận vì bị giam trong chiếc lồng son cao quý.

 

Bỏ quên mất Cột Cờ sừng sững, ngước mắt nhìn “Đoan Môn”, lại thận trọng nhón chân bước, thời gian kết thành vũng nước sâu hun hút làm tê liệt mọi giác quan, chỉ e sẽ đánh động giấc vàng của các nhân vật từng làm mưa làm gió trên vũ đài lịch sử.

 

Nhớ năm xưa, kết thúc nội biến trong triều, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La, mượn điềm thấy rồng bay mà cải danh thành Thăng Long, xây thành đắp điện, mở ba vòng tường. Kể từ đó, Đại La chính thức trở thành Thiên Đô của mảnh đất phương Nam chưa từng được tạo hóa dành cho một thoáng từ bi này. Nuối những tháng năm phồn hoa, dựng các điện Trường Xuân, lầu Trường Minh, gác Nhật Kim… Mở các vườn thượng uyển trồng đầy kỳ hoa dị thảo, nuôi bách thú làm vui. Thảy điểm một nét vào bức họa kinh thành nhộn nhịp náo nhiệt, xa hoa giữa nhân sinh. Có lẽ đời đời quân vương đều mong muốn triều đại mình nắm giữ mãi trường tồn với tuế nguyệt, nhưng có lẽ họ cũng biết rằng trên đời này không gì là bất biến, vì hiểu rõ mới sinh ra “chấp chước”, vì “chấp chước” nên sinh ra đau khổ.

 

Đã tỉnh chưa hỡi giấc mộng vàng? Từ trên mặt thành nhìn xuống, ngay dưới kia là dòng người hối hả, bên cạnh, một đoàn tham quan người Nhật mê mải lắng nghe chàng trai hướng dẫn du lịch thuyết minh về Hoàng thành. Khoan, có dáng áo dài nào mới lướt qua đây? Cơn lạnh thoáng ập về để tiếng ngâm nga vọng tới từ cõi u minh vang khắp khoảng trời:

 

“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Cảnh cũ lâu đài bóng tịch dương…”

 

Vụt ngoảnh nhìn, thoáng thấy gió thổi qua lần tóc mai, khách tham quan đã rời gót, nào có ai.

 

Từng một thời hoa nở, oanh hót, giai nhân như nước, tiếng đàn hát rộn vang, nay Hậu Lâu trầm mặc tựa ngôi mộ cổ phong kín trăm vạn bí ẩn và mối tơ khó gỡ. Con đường lớn vốn dành cho xe ngựa kia từng có những bước chân qua lại tấp nập, phục dịch cho những kẻ ngự trị lầu son gác tía, nay chỉ thấy cỏ dại mọc tràn. Vết đại bác khắc vào Cửa Bắc, phủ đầy rêu xanh, chứng kiến sự thất thủ của Long thành năm 1873 và 1882, cũng cầm giữ hương hồn hai vị Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Tâm huyết, sự can trường cuối cùng đành buông bỏ, hóa thành đôi dòng huyết lệ không sao vãn hồi lại trước nguy biến vong quốc.

 

Thịnh suy hưng vong, vinh nhục luân chuyển. Trải qua mấy bận thay triều đổi đại, mấy bận thay đổi địa danh từ Thăng Long, Đông Quan, Đông Kinh, Trấn Bắc tới Hà Nội thì nét vàng son rực rỡ trong quá khứ đã khép lại. Đế kinh chịu phải họng súng giáo mác, máu lửa biến loạn ngậm ngùi câm lặng như một vị chúa sơn lâm đến hồi già nua ngày ngày đương bị rút hết máu thịt, nhường chỗ cho tân thành nơi rẻo miền Trung.

 

Bất giác nhớ tới hai câu thơ trong “Hà thành chính khí ca”, thơ rằng:

 

Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường,

Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa…

Trăm năm cát bụi, nơi này từng giam giữ biết bao linh hồn, hữu danh lẫn vô danh. Một cuốn Toàn Thư xé dọc khoảng trời, lật ngược quá khứ, chôn vùi bao kiếp người không được nhắc tới, bao chuyện thắm tình nhòa lệ, bao giấc mơ lớn, bao tiếng thở dài? Dầu một tay đầy vốc phồn hoa, nhưng liệu đã thôi tiếc hận bởi một thiên truyện giang sơn cẩm tú còn viết chưa thỏa?

 

Chầm chậm dạo bước trong vô định. Bấy giờ, bóng tà dương trườn trên từng lớp ngói, dần rỏ xuống mặt đất, đứng giữa Hoàng thành, ngước mắt mà trông lên vòm không thăm thẳm. Mây vẫn trôi, vĩnh viễn chẳng ngừng. Phải chăng, ngàn năm trước đã từng có vị đế vương cũng ngắm bầu trời như vậy, còn tôi giờ cũng vô tình tao ngộ với ngài? Vũ trụ vô hồi vô tận, không việc gì có thể chắc chắn hay đoán biết trước. Máu và lệ năm đó đã cạn khô, từng đợt sóng tàn nhẫn dần lặng. Sau buổi hoàng hôn, ngày mai, (có lẽ) mặt trời sẽ lại mọc và rạng tỏa.

 

[Hiên Đà Giang – Phạm Thị Thúy Quỳnh]

 
 

[Dòng chảy văn học] Nguyễn Huy Thiệp: Con đường văn học

 

9f32b52dda055f934ff52d12ea8741c265a5293e18cdc-nIZWgt_fw658

 

Khi tôi nhận ra rằng văn học là một thế giới hoang tưởng của người viết thì không có nghĩa là tôi hạ thấp giá trị văn học. Tôi chỉ vạch ra khía cạnh vô bổ, vô nghĩa của văn học mà thôi. Tôi cũng đã cảnh tỉnh để người viết dè chừng khả năng bị tha hoá về mặt tinh thần, đạo đức khi cầm bút viết. 

Văn học có khả năng thôi miên. Thôi miên bạn đọc, nó còn thôi miên chính người viết. Những bi kịch đầy rẫy trong cuộc đời các nhà văn chứng minh điều ấy. Tôi không muốn dẫn chứng bởi vì không phải ai cũng thông cảm được.

Khi phân tích về bản chất con người, Nitsơ rất có lý khi chỉ ra rằng cái khuynh hướng lười biếng, rụt rè, sợ sệt đã ngự trị tất cả. Chỉ có ít nhà văn thành công mới dám đương nhiên công nhận rằng bản thân họ cũng hèn hạ, nhăng nhố, đôi khi bợm bãi. Họ công nhận điều ấy không phải để cầu xin sự cảm thông của người đời. Những nhà văn ấy với lòng tự trọng và sự lịch lãm sẵn có, dám đứng ra trả giá cho những đam mê của mình, quá hiểu rằng con người làm sao có thể cảm thông cho nhau được? Ai cũng là người khác. Mỗi người là một hiện hữu, một vật thể, một linh hồn, một bản ngã, một duy nhất không lặp lại. Việc công nhận những khuyết tật của mình chỉ là một hình thức tự phê phán, tự trục độc, một lối phân thân u sầu nhằm cảm nhận hết nỗi nhục mà nhà văn phải trải qua, phải chịu đựng, đã thấy được.

Read the rest of this entry »

 

[Truyện ngắn] Bể hoạn bao giờ bằng lấp? – Quỳnh Phạm

 

 mai 1

“Việc của mỗi người là tưởng tượng nỗi cô đơn của riêng mình và giải nghĩa sự cô đơn đó.”

– Philippe Claudel-

I

 

  Nguyễn Trãi cúi đầu vốc nước rửa mặt, nước mát luồn qua kẽ tay táp lên làm bản thân tỉnh táo trở lại. Ông ngồi xuống phiến đá phủ rêu, giống như một vị sư đang nhập thiền. Áo thô, cơm nhạt, rau lạnh, trà thanh, chìm nổi trong bể hoạn bao năm, cuối cùng cũng đành đánh lừa quay về núi, dắt díu theo cả một bầy đoàn thê nhi yếu và đuối. Lòng người lạnh lẽo xiết bao, chỉ duy có non sông vẫn thủy chung như thuở ban đầu.

 Thông reo bên tai, suối chảy róc rách, ánh nắng lọt qua tán lá rọi xuống mặt nước soi tỏ từng đàn cá dầu cá bống nhỏ tí ti đang thong dong lượn lờ. Giữa cảnh lâm tuyền, con người đều trở nên nhỏ bé. Nguyễn bỗng nhớ về ngày xa, thời tráng niên hùng khí chẳng mòn, mong khuông phò minh chúa đuổi bọn quỷ Ngô thoát khỏi cương thổ. Với cảnh quần tinh tụ hội lúc bấy giờ, quả thực Nguyễn đã từng cảm thấy mình kém tài. Bạn hữu năm xưa từng cùng nâng chén dưới chân Tản Viên nay đã thay nhau xóa tên mình khỏi sử xanh, kẻ lui về ở ẩn chẳng màng vinh hoa, người bị quyền lực dìm nịch đến chết trong nhục nhã.

 Dưới lòng suối, vài chiếc lá xoay tròn, mấy con kiến đen ngơ ngác sang sông. Ừ thì sang sông, cuộc đời con người ai chẳng phải sang sông một lần. Chúng đang đi tìm nhà mới, quê hương mới. Nguyễn bỗng thấy bần thần, nhà, quê hương… Thấp thoáng trong gió mùi đất bụi ải Nam Quan, còn vương đâu đây tiếng cha dặn dò trước lúc bị đem về phương Bắc. Có phải cha cũng từng ngồi trong nhà tù lạnh lẽo, nom ánh sáng leo lét lọt qua vuông cửa bé bằng lòng bàn tay mà trông về cố hương? Cha ơi… Nguyễn cúi đầu, từ trong khóe mi rơi xuống không rõ là máu hay nước mắt?

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 27, 2015 in Truyện ngắn

 

[Đà Giang tạp ký] Đường về nhà vẫn còn rất xa

image

Tôi từng đọc một bài thơ mang tên “Bi ca”, có mấy lời rằng:

“Hát điệu buồn muốn rơi nước mắt,
Ngóng trông xa những muốn trở về,
Thương nhớ làng quê, da diết não nề…”

Nhà của tôi ở trên miền núi cao, đường đi rất xa, cần vượt qua muôn vàn cảnh trí mới có thể tìm lại chốn xưa. Rời khỏi mái gianh khói bếp, mong muốn đặt chân tới phương trời xa để rồi nay lại đè nén niềm rưng rưng thương nhớ mảnh đất ấy trong tim. Xe lao trên những triền dốc, thấp thỏm vì những khúc cua vắng người. Bên này, vách núi dựng. Bên kia, mây quẩn quanh vực sâu thăm thẳm, chờm lên cả cây cối mướt xanh. Ven đường, hoa dại nở tràn, nhìn kỹ, hoá ra đó là loài Tỷ Muội mãn khai quanh năm, vạt này nối tiếp vạt kia tạo ra cung đường đầy màu sắc.

Nhà của tôi ở trên miền núi cao,khí hậu bốn mùa trong lành, nhưng đường lại rất khó đi, ổ gà ổ voi không thiếu. Mùa mưa đến, đất bùn ẩm ướt nhão nhoét chỉ mong làm người ta trượt ngã. Hạ sang rồi, nắng hanh thổi tung cát bụi ngập cả vòm xanh. Ấy là trong quá khứ, giờ đây công nghệ đã len lỏi lên tận non núi heo hút, trải con đường mới, cũng phần nào tránh hành hạ khách tới từ phương xa.

Gió thốc, đánh thức đôi mắt đương mải mê với cảnh, tôi bỗng nảy ra ý nghịch, tháo tung mái tóc để ba ngàn sợi phiền não thoả thuê với thiên nhiên. Từng khóm cây, bụi cỏ, nhành hoa khi thì trắng ngần thanh tân, khi thì xanh mát dịu lòng, khi thì vàng tươi rực rỡ cứ thế lướt qua. Rõ ràng bản thân đang tiến về phía trước, vậy mà đã mang tâm thế nhặt cánh hoa tàn.

Còn nhớ, trường mẫu giáo năm xưa lợp mái gianh thủng lỗ chỗ có thể để vệt nắng nhanh chân soi vào khuôn mặt lem luốc của đứa trẻ đang ngủ gật hay để mưa trút xối xả làm nhòe cả những mặt bảng nguệch ngoạc chữ cái chưa thành hình. Trường mẫu giáo nằm trên triền đồi, mùa xuân tới, hoa dại nở rộ đưa hương mộc mạc mà khi lên phố người ta sẽ vĩnh viễn chẳng cảm nhận được; Hạ sang rồi, hoa sim hoa mua thay nhau nhuộm tím một vùng đợi lũ trẻ tới hái những trái chín tươm ánh mặt trời ngọt lịm đến nao lòng. Thấp thoáng phía xa có bụi mâm xôi xanh mướt, năm nào cũng dâng ra những trái tim mọng đỏ chực vỡ tan để dào ra dòng huyết ngọt lành.

Trong ký ức, mọi thứ dường như vẫn vẹn nguyên. Thuở ấu thơ, khoảng trời của tôi nằm phía sau chợt Chiềng sầm uất, nơi ấy có bãi rác chất cao và cống nước đen ngòm bốc mùi khó chịu. Tường bao quanh chợ dù có cao đến mấy cũng không ngăn nổi tôi tìm mọi cách trèo lên và ngồi ngắm vòm không vô tận. Mây bồng bềnh muôn hình muôn vẻ, bóng tà dương tô hồng gương mặt non nớt. Mây vẫn trôi, chưa từng ngừng lại, chưa từng bao dung, cũng như thời gian mải miết không ngừng. Ngoảnh đầu lại, trong đáy mắt ta đều đã hằn dấu vết tháng năm, quen với những tiếng thở dài chỉ riêng mình thấu hiểu.

Mỗi sáng mùa thu, gió mát nhẹ thổi, dịu dàng và mềm mại. Tôi thích nhắm mắt lại để tận hưởng cái ôm của gió, nghĩa tình của gió. Khi ấy, biết bao nhiêu vết thương cũng sẽ lành lại.

Năm nay, lập thu rồi mà trời vẫn đày ải nhân gian, gió nóng thốc cuốn theo bụi bặm, vương cả vào đáy mắt. Tri Nhân bảo: “Cát bụi trần ai”. Ừ thì trần ai, ngắm cảnh lại càng rầu lòng, buồn vì cảnh, thế thôi…

Đường về nhà vẫn còn rất xa, cảnh cũ cứ thế ùa về như thước phim quay chậm. Từng mong rời khỏi miền sơn cước, dấn thân vào chốn phồn hoa. Vậy mà thành thị lại càng khiến ta lạc loài đơn độc. Gió mây vạn tượng, lòng người sâu thẳm, chợt nhận ra non xanh nước biếc mới là tri âm.

Quỳnh Phạm – 10/9/2015

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười 11, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Đà Giang tạp ký] Vũ Thanh

 

image

(Ảnh Sông Đà về đêm – Quỳnh Phạm)

Mưa như trút đổ, cơ hồ Trời cao đang khóc thay nhân loại, giữa quay cuồng của cuộc mưu sinh, con người chẳng được một phút ngơi nghỉ, ngay cả một phút yếu lòng, một giọt lệ ấm cũng trở nên xa xỉ thì cơn mưa lại trở thành niềm an ủi hiếm hoi.

Mưa dội trên mái nhà, chảy dọc xuống khoảng tường bong tróc nham nhở rêu xanh và cuốn phăng cả bụi bặm bám dày. Có lẽ, đời người nên có những cơn mưa như thế, tàn nhẫn, đớn đau nhưng tạnh rồi thì lòng lại yên ổn an bình, mọi thứ trở nên thanh sạch như thuở nguyên sơ.

  Tôi luôn thích cái cảm giác mưa rơi vào khoé môi, xoà lên mi mắt thay người nhỏ lệ. Nhưng lúc ấy lòng lại trống trải lạ. Nói với Tri Nhân rằng mưa lạnh quá, nhưng nào phải do mưa mà nó toả ra từ cốt tuỷ. Cổ Long từng viết một câu: “Năm tháng tất tả, thình lình mất hết. Được một bạn tri tâm rồi, chết cũng không hối tiếc.” Trời Nam đất Bắc, chỉ đành vỗ gối nuốt uất ức cách biệt xa xôi. Giữa tiết trời se se, mọi ưu phiền đã bị khoá chặt ngoài ngõ sâu đường vắng, đêm tĩnh mịch thu vào chén Bạch Hạc đượm hương cốm non thơm ngọt và nghĩa tình bạn hữu vong niên, thưởng trà lúc này càng tăng thêm ý vị nhân sinh.

  Một mình bôn ba, đáy mắt vương gió bụi, trái tim chằng chịt vết thương kết sẹo, đêm thao thức chẳng ngủ, nghe tiếng mưa gõ nhịp cũng đủ phân ưu. Cứ nghe mưa suốt đêm, bỗng nhớ tới bài thơ “Thính vũ” của Nguyễn Trãi:

“Vò võ phòng trai vắng,
Suốt đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng rung gối khách,
Thánh thót mấy canh dư.
Cách trúc khua song nhặt,
Hoà chuông động giấc mơ.
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ,
Đứt nối đến tờ mờ.”(1)

  Những giọt mưa ấy xuyên qua thời gian, xuyên qua không gian quánh đặc, rơi lẫn vào quá khứ và tương lai, không rõ đã làm nhoè nét mực của ai… Hay là đã rỏ vào tấm lụa hoạ mấy vần tài hoa của Ức Trai tiên sinh năm đó? Họ Nguyễn thăng trầm trong bể hoạn, từng có lòng cầu Phật, kết bạn với thiền sư Đạo Khiêm nhưng tới phút cuối vẫn có chấp niệm chẳng thể buông xuống, rước vào mình cái hoạ tru di. Chuyện xưa tuy đã phai dấu, nhưng còn nhức nhối tới tận hôm nay mặc cho hậu thế kiếm tìm sự thật. Có điều, chân chân giả giả, lịch sử trí trá, liệu chúng ta có thể tìm thấy bao nhiêu phần của câu chuyện cách đây nửa thiên niên?

Năm nay không có mưa Ngâu, tiết trời gay gắt, đêm oi nồng. Bỗng nhiên nghĩ, liệu rằng mối tình trải vạn năm của Ngưu Lang, Chức Nữ có còn vẹn nguyên? Nàng là người nơi tiên giới, lòng không đổi. Thế nhưng Lang lại là kẻ chốn hồng trần sâu vạn trượng, liệu có thể giữ tấm chân tình giữa sự mê hoặc của trần thế? Chỉn e, truyền kỳ mà chúng ta ngưỡng mộ đã kết thúc từ lâu: Ngưu Lang không bước về Ô Thước, nhất quyết đoạn tình, lấy một cô thôn nữ hiền lành làm vợ, sinh con đẻ cái, tiếp tục luân hồi; Chức Nữ lặng rơi nước mắt, ngày ngày nhìn bể trần cuồn cuộn, lắng nghe những bi hoan li hợp của chúng sinh. Và cũng có thể, thế nhân đã biết trước kết cục của câu chuyện ấy, tuy nhiên vẫn cố chấp, giữ lại chút ấm áp giữa nhân gian lạnh lẽo hỗn tạp này.

Trong một đời người có biết bao nhiêu điều trúc trắc xảy đến, thảy đều khiến chúng ta không kịp trở tay. Bởi thân còn mải mê với ảo cảnh mà không biết rằng một ngày kia sẽ bị cướp sạch mọi thứ. Trách lòng người đổi thay, sao không biết gió mây luôn biến dịch, chỉ có nhật nguyệt là trường tồn mãi mãi. Bữa tiệc nào cũng sẽ tàn, cuộc cờ nào cũng sẽ tan, hoa thơm rồi cũng sẽ nát thành bùn, người có vẻ vang cũng chỉ là cát bụi theo thời gian.

Đã về khuya, đêm nay vẫn nghe tiếng mưa tựa ngọc vỡ đêm cũ. Bèn trở dậy pha trà. Biết bao cuộc tương ngộ, là duyên hay nghiệt cũng xin tan theo lá trà xoay vần trong chén.

Tôi vẫn yêu cảnh mai rụng hiên vắng, lật một trang sách, châm chén trà nhạt, ngóng mưa xuân lất phất, đời này thong dong chẳng lo chẳng phiền. Hạnh phúc ấy tuy đạm bạc giản đơn nhưng thực ra rất khó cầu được. Chớp mắt, hạ tàn. Rồi mai thu sẽ lại sang, ngóng cúc giậu đông, giọt sương giá…

(1) Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh.

Hoài Nhân – Hiên Đà Giang – 5/10/2015

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười 11, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Ngắn] Phóng cuồng ký

524acf043be9248f39580d6363411ccb3149a19b1acc5-eetftq_fw658
Đông, chưa từng có mùa đông năm nào lại khắc nghiệt và dữ dội như năm nay. Tưởng chừng như mọi cái giá buốt hò hét nhau tụ tập lại, ẩn nấp ở một xó xỉnh nào đó rồi ập ra làm một trận tập kích vào một góc trái đất đang tan chảy vì ánh nắng gắt bỏng cao xanh. Không rõ phải truy nguyên từ đâu, nhưng mọi sự năm nay đều bất tường. Có lẽ là khi cụ rùa chốn Hoàn Kiếm phong phủ long mạch qua đời, hoặc có lẽ là phải quay ngược thời gian về cái chết đầu tiên của một nghệ sỹ đã báo hiệu cho sự lung lay về sau. Hầu hết mọi người đều bắt đầu truyền tai nhau những dự đoán giật gân, thậm chí là kinh dị, rồi loay hoay trong mớ bòng bong sợ hãi ấy.
Ta ngồi co ro trong chăn – cái ổ ấm áp của mình – và chưa hề bước ra khỏi cửa phòng suốt ba ngày qua. Trên bếp, siêu thuốc đang sôi, tỏa ra thứ mùi dễ chịu ngai ngái. Ta rót một cốc thuốc đầy và nóng tới bỏng tay, cứ vậy ngồi nhấp từng ngụm một. Bên ngoài kia, gió thổi lồng lộng và mưa giăng kín lối. Ở nhà ta, tuyết đã rơi từ ba giờ sáng, lần đầu tiên trong suốt hàng trăm năm. Hẳn là lũ tuyết ấy đang hả hê lắm, chúng đã khiến cho hàng triệu người không kịp trở tay cơ mà, thiên nhiên đôi khi cũng xảo trá như vậy đấy.
Ta ôm ngực ho sù sụ, cơn thắt trong lồng ngực lại dồn đuổi tới, hành khốn thân xác này tới cùng cực mới thôi. Đầu váng vất, trước mắt quay cuồng, ta lập tức đổ sụp xuống, mắt vẫn mở thao láo nhìn lên trần nhà. Ta đã quên thắp hương cho ngày rằm, ta gần như mất ý niệm về thời gian, thần Thổ Địa có lẽ đang trách cứ ta.
Bỗng dưng vào lúc này, ta muốn viết, ta thèm khát mùi mực tươi như loài thú đói khát mùi máu. Đúng vậy, viết ngay lúc này, khi mà huyết áp của ta đã tụt xuống ngưỡng 70/40mmHg, khi mà nhịp tim của ta đang vượt 120 lần/phút, khi mà cơ thể ta không thể chống cự được cơn đau. Ta cố gắng động đậy các ngón tay nhưng vẫn không thành công, những con chữ giăng hàng trên trần nhà nện bằng xốp trắng đương rung lên vì giọt mưa nặng.
Ta nghe tiếng bước chân mơ hồ, có ai đó mở cửa bước vào, ta nhận ra đó chính là vị Vua bị lịch sử bỏ quên mà mình thường nhắc tới. Ông ngồi xuống cạnh ta, phủi tuyết trên áo choàng, buồn rầu nói:
– Tuyết năm nay rơi lớn quá.
Tuyết rụng trên sàn lạnh, vì hơi ấm con người mà tan ra rất nhanh. Ta thều thào, mỉa mai:
– Ông là người đất kinh kỳ, dễ gì có cơ hội ngắm tuyết mà còn nói tuyết năm nay hay năm ngoái.
– Mi đã nhầm rồi. – Vị Vua cười chua xót – Ta còn nhớ cách đây năm trăm năm, tuyết đã từng đổ trên Thăng Long như thế này đây. Khắp nơi trắng xóa, trắng xóa… Tháng mười, ở châu Ngọc Ma phát hiện con chuột to như con lợn nhà, sắc nước các hồ đều chuyển sang màu huyết rồng cả.
Ta trông thấy một cánh tuyết lùa vào, cơn mưa rào chạy trốn, để lại hàng trăm hàng ngàn bông tuyết xốp mịn phủ kín cửa phòng. Ta than:
– Lạnh quá.
– Đại biến đấy. – Vị Vua bảo. – Ta thì đã chẳng biết lạnh là gì nữa. Lòng người còn lạnh hơn tuyết ngoài kia, và điều tàn nhẫn thì nhiều hơn sao trời…
Tiếng nói của ông êm như ru, nghe du dương như hát, ta thấy mắt mình tối đi, thoáng chốc đã không thấy vị Vua đâu nữa. Ở tòa lầu lớn, người ta vẫn canh chừng những lá phiếu, có lẽ đây sẽ là đêm trắng của rất nhiều người. Cánh cửa phòng đã được vị Vua đóng kín trở lại, ta lại nghe tiếng thì thào bên tai, tiếng thuồng luồng thở phì phò như đang hờn dỗi. Phải rồi, ta vẫn chưa tìm được cõi đi về cho loài giống thủy thần ấy.
– Hỡi thủy thần, ngài muốn về đâu?
– Cho ta ra biển, chỉ có ra biển mới hóa thành rồng.
– Nước mặn không hợp với ngài, rồi đây vảy ngài sẽ bong tróc ra và ngài sẽ mắc phải bệnh ghẻ lở như thánh vật dưới đáy hồ kia.
Thuồng luồng cười hềnh hệch:
– Con gái thủy thần đã bỏ sông mà đi, ta ở lại thì cũng có ích gì. Còn nhà ngươi, có bao giờ mơ tưởng đến biển khơi?
Ta chết điếng vì câu hỏi ấy, râu của thủy thần gãi vào bên má, để lại hai vết đỏ mờ mờ. Chớp mắt, thủy thần cũng đã bỏ đi.
Trước đây, ta làm trong bệnh viện, nơi đối diện với cái chết hằng ngày và hằng giờ. Còn nhớ trong đêm trực đầu tiên của mình, ta đã phải cấp cứu cho hai người đang hấp hối, tất cả mọi gương mặt tại kíp cấp cứu đều lạnh lẽo như băng đá, ta tưởng như họ là các bức phù điêu cổ chẳng bao giờ cười cũng chẳng bao giờ tiếc thương.
Ta thấy mặt mình lòa xòa đầy tóc, khó chịu làm sao, ta đưa tay lên vén, nhưng càng vén, mớ tóc dày càng trượt xuống nhiều hơn, lấp ló sau đó là một đôi mắt nhìn ta thao láo. Ta hoảng hốt, nhận ra đó là Nhiễm, cô gái trong cuốn tiểu thuyết mà mình đang viết dở dang. Ta đã khiến bao mảnh đời chịu cảnh không đầu không cuối? Ta cũng chẳng còn nhớ rõ nữa. Ta cố gắng cựa quậy, có điều, chân tay đã bị giữ chặt, trong đầu vụt bật ra một cái tên, tên người đàn ông mà ta yêu thương. Ta hét to tên anh ấy lên, và rồi, bóng ma của Nhiễm biến mất.
Giáp tết Bính Thân, quanh quẩn với những câu chuyện, câu chuyện này có thể là của ta mà cũng không phải của ta. Với tay vớ lấy cuốn sách gần nhất bên cạnh mình, là “Những linh hồn xám” của Philippe Claudel, câu đầu tiên trông thấy ấy là: “Tôi ở đây. Số mệnh của tôi là ở đây.”
Tuyết năm nay không rõ sẽ còn rơi đến bao giờ? Ta đang nghĩ gì thế này? Sao mọi thứ cứ rối tinh rối mù như một mớ bòng bong? Ta đang dùng cách diễn đạt gì thế này? Ôi! Ta phát điên mất, người điên tiên phong…
 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 12, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Trà duyên

image

Quán trà ấy nằm ở góc phố, quán rất nhỏ mang cái tên “Năm xưa”. Năm xưa, năm xưa, người đọc lên lại thấy phảng phất biết bao kỷ niệm ùa về. Chủ quán là một cô gái độ hai lăm hai sáu, thường mặc một chiếc áo dài kiểu cổ màu xanh trứng sáo, mái tóc đen dài luôn kẹp hờ sau lưng, ánh mắt lúc nào cũng bình thản an nhiên dường như thấu triệt mọi thứ trên đời.

Khách đến quán chủ yếu là khách quen, mà khách mới đến lần đầu cũng đều phải tìm đường quay lại. Bởi trà, bởi người, bởi hoa. Chủ quán bảo ấy là trà duyên, mỗi một con người sinh ra trên đời nếu đã vương duyên với trà tức là đang muốn tìm về một cõi yên tĩnh, nảy trong lòng một chút thiện tâm giữa vòng xoáy hồng trần. Ngồi trước ấm trà, tĩnh tọa giây lát, nhìn vào những lá trà xoay tròn rồi chìm dần xuống, người ta bỗng nhìn thấy được cả kiếp trước, đời sau của mình. Có người hỏi chủ quán, cô chỉ cười bảo:

– Ấy là trà duyên.

***

Trời đổ cơn mưa, anh và em tìm chỗ trú chân ở trong quán trà nhỏ. Đôi ta đến đây mới lần đầu. Quán trà mang đậm phong vị cổ kính, dường như rêu phong thời gian đã bám dày trên từng chiếc bàn gỗ sẫm màu, từng chiếc mành chạm họa tiết hoa mai ngậm sương, những đóa sen trắng dường như chẳng bao giờ úa tàn. Chao ôi, cái màu trắng thanh tân ấy khiến anh nhớ đến ngày mình gặp nhau. Tương phùng do duyên, duyên phận trong đời như nước chảy, người đến kẻ đi, vậy mà anh lại bị đôi mắt em thu hút.

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 4, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Ru đời đi nhé

c36c64a89ea160f3066e1419d64649e69c1f862bbbd4-Q2kx5a_fw658

Ru đời đi nhé

 

Ngày ấy, ở thành Athene, người ta thấy vị triết gia cầm đèn đi giữa ban ngày. Người ta hỏi, ông đáp: “Tôi đi tìm một Con Người.”

 

I

 

“Đò ơi… Này đò…”

Bên sông có tiếng gọi đò vang, Trâu khua chèo nhấc đáy con đò dậy, từ từ cập vào bờ. Anh đã đưa bao nhiêu người qua sông? Trâu không còn nhớ, sông là đời, đò là kiếp, số phận của anh đã bị gắn chặt tại đây. Trên con sông Đà chất đầy những huyền thoại về sơn thần thủy quái mê hoặc Trâu từ khi còn thơ bé này, đã có biết bao người đến và đi, dù lưu luyến đến đâu cũng vẫn phải bước tiếp, chỉ để lại tiếng thở dài.

“Trăm năm như tiếng thở dài.”*

“Đò…”

Nắng vàng ruộm như mật nhuộm tràn mặt nước, bãi sỏi đủ sắc màu lấp lánh như kim cương. Hoa gạo nở đỏ cháy rực cả khu phố Bờ. Từng đàn cá thong thả bơi, ghẹo đám nhà chài đương mong đánh một mẻ lớn.

Và đời là một tấm lưới,

Bủa vây số phận mỗi người.

Và người chỉ mang phận cá,

Chạy làm sao cho trốn được lưới giời.

 

Khách đã lên đò, bên nách bế đứa bé gái chừng năm, sáu tuổi. Trâu nhận ra Hạnh, người phụ nữ với đôi mắt buồn trong veo như nước. Đôi mắt ấy khiến biết bao nhiêu người mê mẩn, nhưng cũng kinh sợ, bởi nó như muốn nhìn thấu tâm can kẻ khác. Điều đại kỵ chung nhất của từng cá nhân và cũng là sự đáng thương của nhân loại chính là bị người ta đọc hết được nỗi sợ hãi, tình yêu và cả lòng ác của mình. Không ai dám đùa nhả với chị, cho dù hằng đêm vẫn thường tương tư thao thức.

Ấy vậy mà, chị vẫn bị đánh bại, bị đánh bại bởi một thi sĩ. Hoa đẹp thì mau tàn, hồng nhan vốn bạc mệnh. Cuộc tình ấy chỉ như bèo nước, ngoảnh đầu lại đã mỗi kẻ một phương trời. Thi sĩ để lại cho chị một mầm sống, để lại những giọt nước mắt và nỗi nhục nhã không chồng mà chửa. Hỡi ôi, phận đàn bà!

Hôm nay trời oi, không hay đêm mày có nổi lên hay không? Hả thuồng luồng? – Trâu ném câu hỏi về vùng nước sâu.

Tự thuở nào cặp thuồng luồng ấy đã trú ngụ ở khúc sông này, cứ khi trái gió thì lại cùng nhau phơi mình trên tảng đá lớn ven sông. Lỡ may có gặp phải thì chỉ có đường biến thành ma nước. Cặp thuồng luồng ấy đã từng có một đứa con. Trâu bần thần cả người, hỏi khách:

  • Có lên không nhỉ?
  • Thuồng luồng á? – Hạnh hỏi lại rồi tự trả lời – Có lẽ, mà em nghe đồn sắp chuyển lòng hồ rồi, cả một vùng này rồi sẽ chìm cả, không biết Các Vị có biết mà chạy hay không?
  • Các Vị đã đến tuần lão đại cả, đâu có dễ rời khỏi quê hương. Người còn thế, huống chi thần? Phải không cô?
  • Anh Trâu tính thế nào? Anh cũng đâu có thể làm cái nghề đưa đò này mãi. – Hạnh bỏ cái nón trên đầu xuống, vuốt gọn lại mái tóc, nhìn những ngón tay đôn hậu ấy, Trâu bỗng mơ về một gia đình xa xa.
  • Cô Hạnh tính sao? – Trâu không đáp, nói.
  • Em sẽ chết ở đây. Con người thì bạc bẽo, duy sông Đà là chí tình.

Trâu bỗng thấy lạnh sống lưng, ánh mắt Hạnh tựa như xoáy nước hút tuột hồn anh xuống đáy sông. Chuyển lòng hồ, anh sẽ đi đâu? Hay là theo trên Thượng lên Đà Bắc khai hoang? Trâu thấy đau đầu quá, mái chèo giống như lưỡi dao cùn cứa dần vào từng thớ thịt. Đi đâu bây giờ?

“Đò ơi!”

Tiếng gọi đò làm Trâu sực tỉnh. Phải rồi… Phải thế chứ! – Trâu gật gù, đưa đò vào bờ đón khách. Hạnh đặt con nằm xuống, đưa mắt nhìn xa xăm, rồi lại nhìn sắc trời. Đừng nghĩ đang nắng mà khen thời tiết đẹp, rồi đến đêm thôi, Giời sẽ hành hạ vùng sông nước này một phen. Sông cũng biết đau mà.

II

Đêm đến, từ nơi ở bé tí teo của Trâu hắt ra mặt sông một thứ ánh sáng buồn hiu hắt. Gió mát thổi mạnh làm trành con đò, mùi cỏ ứa nhựa thơm nồng quện lấy mùi nước hơi tanh phả thẳng vào bến, đám côn trùng líu ríu đằng xa. Người trên Thượng, dưới Hạ đã đi ngủ cả. Sông Đà, mình Trâu và thuồng luồng còn thức. Anh vắt chân chữ ngũ, gác tay lên trán, nhìn khoảng không bất tận.

Mới chập choạng tối, đôi thuồng luồng đã nổi lên, chúng quấn lấy nhau, nằm trên phiến đá. Âm thầm và lặng lẽ. Người ta hoảng sợ bỏ chạy, chúng cũng mặc. Trâu thấy rầu rầu, hay là chúng biết mình sắp phải tha hương, hay là nhớ đứa con bị giết hại thảm thương. Trâu bỗng nghĩ tới mùa lúa trước, hạt nào hạt nấy căng mọng tinh hoa Trời Đất. Nghĩ tới con thuồng luồng nhỏ như rắn nước bị lão say rượu đánh chết, không ai can nổi. Và, Trâu nhớ tới Hạnh, nhớ đến ánh mắt sâu thẳm của chị – ánh mắt giam cầm cả linh hồn của dòng sông.

Lão Kiền ấy đã có một đứa con, đúng hơn là đã từng có một đứa con… Nhưng rồi nó bị chết đuối, từ dạo ấy, lão luôn săn lùng cặp thuồng luồng kia. Thù hận làm người ta điên cuồng. Nghe đâu dạo nọ lão đã nhỡ tay sát hại một trong hai con rắn thần ở đền Chín Cô, đôi rắn ấy toàn thân đều trắng như tuyết trên đầu lại có mào đỏ tươi như mào gà, vậy mà hôm sau người ta đã tìm thấy lão Kiền chết ở mé nước ven sông, chỗ lội ấy chỉ tới thắt lưng, đâu có dễ làm người am thuộc sông nước ngán ngẩm bao giờ. Câu chuyện này làm ai ai cũng sợ hãi, đừng bao giờ đùa giỡn với thần linh, trời vẫn đang theo dõi anh.

Có tiếng kêu cứu phía xa xa kèm theo tiếng quẫy nước ì oạp, người hay là ma chết trôi? Trâu giật mình, nhìn về mé ấy, gió ngày một thổi mạnh hơn, ai đang khóc lóc giữa đêm? Anh mê đi, gáy lạnh toát, chợt có túm tóc đàn bà sũng nước quất vào miệng anh, dức buốt như kim châm. Nó cười gằn, dí sát cái đầu lâu nhơm nhớp những máu bùn thối rữa sát mặt Trâu, mấy móng tay cạy mắt anh ra. Trâu cứng hàm, nấc lên mấy tiếng, chết ngất.

Tiếng cười the thé lạnh lùng lan dài trên mặt sông, xa dần, như có như không tựa như vọng về từ cõi u minh vô thực. “ Nước Kim Bôi, ma Hòa Bình.” – Các cụ bảo ma quỷ ở đây ăn người được đấy! Con dải thò đầu lên hớp không khí, cặp thuồng luồng thở dài rủ nhau quay về. Lại tiếng thở dài ấy, trăm năm chớp mắt thành không.

III

 

 

Hạnh trở mình se sẽ, tránh cho đứa con nhỏ giật mình. Nắng đã lên rồi, chị ngồi dậy, xuống bếp đặt nồi nước phòng khi có việc cần dùng. Đêm qua, chị mơ về thi sĩ, mơ về những vần thơ bay bổng gã viết cho mình trong những ngày ân ái mặn nồng. Hạnh cay đắng, thời gian đằng đẵng, bao năm đã trôi qua, sao còn nhớ mà chi.

Hạnh cắp cái nón mê, mang thêm đôi quang gánh, con dao thì sẽ mượn ở chỗ Trâu sau, chị chạy sang nhà hàng xóm nhờ bà lão nhìn hộ đứa con, tự nhủ rằng đi cắt rau xong nhanh rồi sẽ về sớm.

  • Này cô Hạnh, hôm nay trên Thượng đánh được mẻ cá lớn lắm, cô có qua đấy thì mua hộ nhé! – Bà lão gọi với theo.

– Vâng thưa bà…

Đôi chân chị thoăn thoắt vượt qua những sỏi đá. Hoa gạo đỏ rụng đầy con đường nhỏ. Nắng nhuộm hồng đôi má, đôi mắt chị sáng lên lấp lánh. Nghĩ tới Trâu, Hạnh thấy vui vui. Sau đó… Không có sau đó.

Hạnh thấy cánh tay mình như bị bẻ gãy, chị bị xô ngã, đầu đập vào tảng đá khiến máu cứ thế thi nhau rỉ ra. Giữa vạt cỏ cao, chị bị tấm lưng trần nhễ nhại mồ hôi đè nghiến lên, Hạnh thấy mình như bị xé rách, đau đớn và nhục nhã ê chề. Chị cắn chặt môi đến bật máu, hình ảnh của thi sĩ xẹt qua. Ngày ấy, có phải cũng thế này hay không? Hay là vì tình yêu quá lớn nên cái gì cũng trở nên mềm mại? Hạnh cười rưng rức, khóc cũng rưng rức.

Trâu ơi! Chị rệu rã, tủi nhục. Một đóa bồ công anh bay về trời, bay mãi. Này hoa… Hạnh lịm đi.

IV

 

Mặt nước sông ấm áp ôm chầm lấy Trâu, anh thấy mình đang chìm dần xuống, nước trong vắt thấy rõ cả đáy và quang cảnh xung quanh. Quái, sao mà quen thuộc thế? Bên kia là đền Chín Cô, gốc gạo cổ thụ mà những người đi từ Hà Nam Ninh về cũng nhìn thấy, đền La Hán rồi cả bãi sỏi trải dài vô tận. Những linh hồn lạ lẫm với phong cảnh mới phiêu du xung quanh, nét mặt ủ dột buồn bã. Trâu thấy đôi mắt thuồng luồng to như cái bát, chúng hú lên và khóc, nước mắt thuồng luồng chảy dài. Cả hai rủ nhau chạy trốn khỏi quê hương.

Trâu quẫy nước, anh thấy con đò chìm nghỉm mục nát dưới lòng sông, con dải thở khò khè rít lên trong bất lực. Cây cối, nhà cửa ngập trong biển nước. Trâu hoảng loạn, kinh sợ, và muốn mở miệng cầu cứu. Có ai ở đó không? Ai nghe thấy anh?

Ta tìm ta giữa cơn mê,

Cái ác, lòng thiện và con người.

Ta tìm ta giữa cơn mê,

Cầu xin chút niềm riêng rơi rớt…

 

Và đời là một tấm lưới,

Bủa vây số phận mỗi người.

Và người chỉ mang phận cá,

Chạy làm sao cho trốn được lưới giời.

Trâu choàng tỉnh sau cơn mê dài, toàn thân lạnh ngắt như người chết trôi. Anh hoảng loạn nhìn quanh, ánh mặt trời làm lòng người dịu xuống. Trâu soi mình xuống mặt sông, sóng nước lăn tăn gợn, anh thấy rõ dấu móng tay đen ngòm in trên mí mắt. Tiếng cười ghê rợn vảng vất làm anh tái người.

Nơi mỏm đá cao ngất, anh nhìn thấy bóng hình của một người đàn bà ôm con, hình ảnh ấy cô độc mà ngạo nghễ. Chị đang đợi ai? Anh chết sững, anh có thể làm gì? Anh nhớ đến lời của văn sĩ qua sông năm trước, nhớ tới nụ cười méo xệch thảm thương của ông ta: “Đời cơ bản là bất lực, đến trăng còn có khi tàn khuyết, kiếp người có là chi đâu.”

Hạnh nhắm mắt trước sông Đà, hít hà mùi hương phù sa ngon đỏ mỡ màng. Chỉ khi đứng trước sông, chị mới thấy mình sạch sẽ. Đứa con khóc thét. Hạnh nựng, vỗ nhẹ lưng con, ngân nga:

“À ơi… Hoa bay lên trời, rau răm ở lại. À ơi… Hoa cải lên trời.”

Gió mẹ dịu dàng xoa dịu những vết thương trên mình con gái vua Thủy Tề, gió hát bên tai Hạnh. Dòng nước dịu mát rửa sạch bùn đất trong tim, chị trở lại tinh khiết như vũ trụ của thuở hồng hoang. Con ơi, cuộc đời bạc bẽo lắm. Mẹ không dám để con sống một mình trên đời. Hãy theo mẹ về với sen xanh, ở nơi ấy không có buồn đau gì cả, chỉ có thiên đường mà thôi. Hạnh buông lơi đứa con, dần chìm xuống.

“Em sẽ chết ở đây!” – Trâu ngồi thụp xuống, bưng mặt khóc. Lời nói ấy sao mà quyết liệt đến thế. Con trẻ nào có tội chi.

Nước vỗ oàm oạp vào sườn sông, giông bão kéo tới, tấm lưng khổng lồ của cặp thuồng luồng nhô hẳn lên. Con gái vua Thủy Tề đi rồi, linh hồn của dòng sông đi rồi. Chúng ngửa đầu lên trời, hú dài tiễn đưa. Bỗng dưng trước con đò của Trâu hiện lên một cái đầu khổng lồ, nom như rồng mà lại như rắn. Con thuồng luồng cái ứa nước mắt, thả đứa bé vào lòng đò rồi lặn đi mất. Con trẻ nào có tội chi.

À ơi…

Ru đời đi nhé em ơi,

Trăng tròn nét son.

Ru đời đi nhé em ơi,

Tuổi xuân hoa mộng,

Buồn mà chi hỡi đời.

Và, Trâu cầm trên tay ngọn đuốc đỏ hồng, trông về phía xa.

“Đò ơi… Này đò!”

Con đò kia, mi đã bao lần sang ngang? Đã đưa đón bao nhiêu kiếp người? Mi đã khóc thầm bao lâu? Cháy, hãy cháy đi! Hãy cháy đi và hóa thân thành tro bụi! Trâu cười điên dại, cặp thuồng luồng thở dài thườn thượt, trăm năm chớp mắt thành không.

Người ta bảo, những năm trước khi chuyển lòng hồ, có một kẻ say đốt rụi con đò của mình. Người ta bảo, những năm trước khi chuyển lòng hồ, có cặp thuồng luồng hát mãi không thôi. Người ta bảo, những năm trước khi chuyển lòng hồ, có người con gái vua Thủy Tề tự ải ở đây, nay mộ nàng đã chìm dưới lòng sông, ngàn năm canh giữ chốn này.

 

 

  • Khâm Thiên – Hiên Đà Giang, 13/6/2015.

 

*Chú: Câu hát trong bài hát của Trịnh Công Sơn.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Sáu 13, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Trịnh

image

 
“Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi.”
 
(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
 
Nàng nhận được một bức thư tay, những giòng chữ viết rất tốt, bay bướm và run rẩy. Bức thư còn vương mùi hương của Trịnh làm Nàng xao xuyến, nó đã cắt đứt nàng với cuốn tiểu thuyết dở dang.  Nàng cất bức thư trước ngực như một tấm áo giáp bằng tình yêu, chạy đến ven hồ và trầm mình vào giấc mộng.
 
Tỉnh hay mơ, mơ hay tỉnh? Đời là một cơn mê dài, ai biết ai tỉnh ai mê?
 
Nàng bắt chuyến xe ánh sáng đến với vùng đất thần linh, ăn vận thanh lịch và rạng rỡ như một đóa hoa, nhón từng bước chân vào trong quán cà phê, nơi ấy có ông. Ánh đèn vàng ấm áp treo cao, sắc gỗ nâu trầm quện lấy mùi sách cũ. Hôm nay Trịnh mặc một chiếc sơ mi màu trắng, ông trẻ lại đến vài chục tuổi. Ông đang ngồi bên cạnh tách cà phê nguội ngắt, thấy nàng, ông bèn đứng lên, lịch lãm như một chú rể.
 
Nàng cúi đầu, nhẹ nhàng như con bồ câu nhỏ uống nước trong máng. Trịnh bước ra, kéo ghế cho nàng, cánh tay họ sượt qua nhau để lại mùi nước hoa ngọt ngào tinh khiết. Đây là cuộc hẹn đầu tiên của họ, họ chưa từng biết đến nhau, vậy mà chỉ một cái liếc nhìn thôi đã biến khoảnh khắc ấy thành một đời.
 
Và trời mưa, cơn giông kéo tới làm cả khu phố tối sầm lại, dường như muốn làm dịu xuống cái thẹn thùng của những đôi trai gái trong quán nhỏ. Trịnh bắt đầu triết lí về cuộc đời, về tình yêu và cả cái chết. Nàng chăm chú lắng nghe ông.
 
–         Này em, cái chết có là gì đâu, nó đẹp đẽ biết bao và là bến đỗ bình yên nhất của kiếp người.
 
–         Này em, làm người khổ lắm, mỗi người đều cô độc, có biết bao nhiêu lần nước mắt ta chảy ngược vào trong, không phải để nén đau thương mà chỉ mong tưới tắm cho mảnh ruộng trái tim khô cằn.
 
–         Này em, em biết không, tình yêu làm chúng ta đau khổ, nó khiến trái tim ta vỡ nát trong câm lặng. Nhưng chúng ta vẫn phải yêu, thậm chí còn bỏ cả đời để tìm kiếm một tấm chân tình.
 
–         Này em, con người ta bạc bẽo lắm, thời gian cũng thế, nó chỉ nhăm nhe rình rập cướp sạch tuổi xuân của chúng ta. Ừ, đúng vậy, em đã nghe câu “Xuân bất tái lai rồi” phải không?

Read the rest of this entry »

 
8 bình luận

Posted by trên Tháng Sáu 5, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Ngắn] Tố Tâm

Tố Tâm

Năm tháng vội vã như bóng câu, hoa tàn lại nở cũng không còn như trước, nắng đổ trước thềm vỡ tan thành bọt nước nhưng lại dịu dàng hơn bao giờ hết, có lẽ vì đã từng kinh qua đau thương nên mới trở nên từ bi với thế gian.

Tố Tâm, ở căn nhà nhỏ trên con phố cổ kính này, mẹ pha một chén trà trong và mong muốn được trò chuyện với con, hình ảnh bé nhỏ đáng yêu tinh khiết của con khiến mẹ cầm lòng không đậu, chỉ muốn nói yêu thương con thật nhiều. Phải rồi, con yêu, khi con gặp được mẹ cũng là lúc tuổi thanh xuân của mẹ đã bị cướp đi, trải qua đau thương li biệt, bà ta đã chán ngấy ngọt bùi cay đắng của thế giới này. Bà ấy đã quá mệt mỏi vì mang theo bên mình một câu chuyện không có hồi kết.

Con yêu, mẹ con viết ra những câu chuyện khiến người khác phải trăn trở, khắc khoải, trong câu chuyện ấy, mẹ của con đôi khi xuất hiện như một kẻ điên, đôi khi lại xuất hiện như một kẻ mong muốn được bảo vệ cả thế giới nhưng con biết không? Bà ta vĩnh viễn chẳng thể nào cứu rỗi được chính mình.

Tố Tâm, con hãy lắng nghe dù cho có tê dại đến mấy. Mẹ của con đã trả đủ nước mắt cho nhân gian, đã nghe hết mọi câu chuyện của đời người, giờ đây bà ấy đã hoàn toàn trống rỗng, có thể một ngày kia, mẹ của con sẽ rời khỏi nơi này, thả mình xuống dòng sông Hoài và hóa thân thành cánh bướm bất tử. Mẹ sẽ đậu trên những khóm hoa, kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích, những mối tình khắc khoải và rồi gió sẽ đưa mẹ đi. Thật xa…

Ông của con rời bỏ mẹ khi mẹ còn là một mầm sống chưa thành hình, non nớt và yếu ớt. Ông ta để lại cho mẹ sự không hài lòng của mọi người, sự giễu cợt của thế nhân và những vệt sẹo chằng chịt trong tim. Ông ta để lại cho mẹ một tuổi thơ bắt đầu với những chuyến xe, những chuyến xe đi rất lâu, năm ấy mẹ được sáu tuổi. Con gái của mẹ, ngôi nhà xa lạ với những người xa lạ đã chào đón mẹ, tuổi thơ của mẹ chôn chặt trong căn nhà cấp bốn với giàn hoa giấy buồn rầu.

Suốt những năm tháng sau này, mẹ đã học được cách im lặng, im lặng quan sát và im lặng rơi lệ. Thời thơ ấu với khoảng sân rộng, với trăng sáng, với những buổi điện mất liên miên, với những chiều hè nóng đến bức người, với những trận đòn và những lời mắng chửi đã lùi xa. Xa đến mức mẹ không còn nhớ rõ. Thảng hoặc, hình ảnh xưa cũ lại thay nhau làm phiền mẹ và chạy chậm như những thước phim, có đoạn rõ ràng, có đoạn mờ cũ đến mức không thể nào xem hết. Duy một cảm giác mà có lẽ đến cuối đời mẹ không thể quên được, đó chính là vị máu tanh, vị nước mắt, vị nhạt nhẽo của cuộc sống thực đối lập hoàn toàn với niềm vui thú đặt trong những câu chuyện cổ của một thế giới xa xôi.

Giờ đây, nhìn vào gương, mẹ thấy một người phụ nữ đầy mỏi mệt. Bà ta đã trưởng thành thầm lặng, cứ thế bước đi mà không cần ai dù đã có vô số lần vấp ngã. Tố Tâm, con biết không, những cú vấp ngã đầu đời ấy khiến toàn thân mẹ trầy trụa, khiến mẹ phải chui vào một góc và tự mình liếm láp chúng như một con thú bị thương, rất nhanh thôi, chúng sẽ đóng vảy và lên sẹo. Rồi một mai, khi không có mẹ ở bên, con cũng sẽ phải đứng dậy như thế.

Tố Tâm của mẹ, cha con đến trong một chiều mùa đông và đầu hàng thế giới vào xuân năm đó. Ông ấy không đủ kiên nhẫn với mẹ và với con, ông ấy trốn tránh, cướp hết tất thảy của mẹ. Con yêu, ông ấy mang đi linh hồn và cả tình yêu của mẹ, ông ấy thật ích kỷ phải không? Nhưng may mắn thay, mẹ còn có con, chí ít con đã giữ lại chút ký ức đẹp đẽ như đóa sen xanh giữa mẹ và cha con.

Con gái của mẹ, Tố Tâm của mẹ, mẹ yêu cái tên và gương mặt con xiết bao, chúng luôn luôn xinh đẹp rạng rỡ như trăng rằm. Con gái, cha con đã đi xa lắm rồi, ông ấy đang trên đường tìm về với Phật, với sự an bình, và ký ức đẹp đẽ sẽ chìm xuống đáy nước. Con biết không, thuở thiếu nữ mẹ luôn mơ về một gia đình hoàn mỹ, những vết thương thời thơ ấu khiến mẹ hoảng sợ. Tuy vậy một ngày kia, khi cha con bước vào cuộc đời mẹ, xoa dịu những đau thương và tước đi mọi thứ thì mẹ đã hiểu rằng trên đời này không có gì là hoàn hảo, là vĩnh cửu cả.

Lòng người lạnh lẽo nhưng nước mắt lại ấm áp vô cùng. Con yêu, một ngày kia mẹ sẽ đi xa; một ngày kia có thể con sẽ giống như mẹ, phải đứng lên trên chính đôi chân của mình, chỉ yêu bản thân mình, phải một mình vượt qua bão tố; một ngày kia con sẽ hiểu được rằng mình chỉ có thể dùng nước mắt để sưởi ấm cho bản thân, vòng tay của ai cũng đều không chắc chắn. Tất cả sẽ rời bỏ con, thời gian sẽ cướp sạch sành sanh của con, cả tuổi thanh xuân, sắc đẹp, tài năng. Đến cuối cùng con chỉ còn là một cái xác trống không, khô héo với linh hồn úa tàn, con sẽ tan biến ra như nàng tiên cá giữa đại dương mênh mông, sẽ không có ai gọi tên con nữa.

Tố Tâm của mẹ, con gái yêu của mẹ. Mẹ mệt mỏi rồi, mẹ đang gom nhặt từng cánh hoa tàn, nhặt nhạnh những mảnh vụn tuổi xuân để trả lại cho thế gian. Con yêu, con có nhìn thấy sóng nước sông Hoài không? Con có ngửi thấy hương nồng nơi phố cổ? Con có nhìn thấy những cặp tình nhân đang quyến luyến trao gửi những nồng nàn chóng tan? Trước khi đến với mẹ, con đã gặp cha con chưa? Tất cả đang chào đón con, con yêu, tất cả mọi thứ sinh ra trên đời này đều để gọi tên con.

Tố Tâm của mẹ…

Trấn Thiên/ Khâm Thiên – 30/5/2015, Hiên Đà Giang.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Năm 31, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn] Ở nơi ấy.

image

Bạn và tôi lênh đênh trên chiếc lá, chiếc lá xanh dong ra đại dương. Này đàn cá kia, mày có thấy biển sâu nhường nào? Này đàn cá kia, sao mày vẫn cứ yên lặng như thế? Xin hãy nói với ta dù chỉ một lời thôi, rằng giông bão không là gì cả. Giông bão… Chúng ta sẽ chết phải không? – Bạn hỏi. Tôi chỉ cười, bạn của tôi, trên đời này cái chết có đáng sợ không? Phải rồi, cái chết không hề đáng sợ, đáng sợ nhất là những kẻ đã chết nhưng vĩnh viễn chẳng câm lặng, nằm dưới ba tấc đất mà vẫn cố gân cổ lên gào thét với thế gian.

Viết, phải viết thôi. Chữ nghĩa là ma quỷ, nó ám theo tôi và bạn, bám dai như đỉa đói không tha mồi. Viết, hỡi nước nước non non!

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Năm 24, 2015 in Truyện ngắn

 

Nhãn:

[Truyện ngắn] Tấp tểnh

Hỏi lão đâu ta? Lão ở Liêm
Trông ra bóng dáng đã hom hem.
Lắng tai non nước nghe chừng nặng
Chớp mắt trăng hoa, giả cách nhèm
Cũng đã sư mô cùng đứa trẻ
Lại còn tấp tểnh với đàn em.
Xuân thu ướm hỏi đà bao tá?
Cái miếng phong tình vẫn chửa khem.

– Trần Tế Xương –

[Truyện rất ngắn]Tấp tểnh

 

– Vậy là từ ngày chị thi được cái giải hoa khôi là coi như đời cũng khấm khá lên phỏng? – Lão chỉnh tề trong bộ xiêm y đạo mạo, cố gắng đè ra cái giọng lịch sự không chớt nhả nhất để mà hỏi chị ả mơn mởn nọ trước mặt biết bao cánh nhà báo đang đói viết.

Sao lại là hoa khôi? – Chị ả thấy khó chịu lạ. Rõ ràng ả thi được giải hoa hậu cơ mà, hoa hậu hẳn hoi đấy, một chữ hoa hậu khiến cho cả một xã hội sôi sục nhìn chòng chọc vào cuộc sống của ả như hổ đói rình mồi khiến cô thiếu nữ thấy mình là quan trọng. Hoa khôi có là gì, minh tinh điện ảnh có là gì, chỉ có hoa hậu mới đủ sức gây nên sóng gió như thế. Ả nghĩ vậy và thấy rất hài lòng. Nhưng trước mặt cánh báo giới, chị ả đành cười khiêm tốn:

–         Dạ thưa giáo sư, cháu cũng tự thấy bản thân mình may mắn lắm.

Lão cười hà hà, chỉnh lại cái kính to tướng trên khuôn mặt già nua của mình. Mùi phấn hương thiếu nữ thi nhau trêu chọc lão, làm lão quên đi nào là văn bia, nào là nghiên cứu, nào là anh hùng, nào là áo sường xám mũ sường chí trong buổi mừng thọ, nào là những câu thơ của cái ông nhà thơ bị lão đè ra mà gạch mà sửa – Dù không phải chính lão ra tay nhưng lão lại giữ lấy cái vị trí của một mãnh tướng sắp về hưu, ra trận đánh trống cổ vũ đám trẻ làm cái việc mà mình cho là hơn được cổ nhân ấy. Thậm chí, lão suýt quên mất mình là giáo sư. Lão thấy đời sao mà đẹp quá, sao mà đáng sống quá và rồi lão thấy tiếc những ngày xanh không chơi cho đã cái thú phong lưu đi!

Ngồi cạnh ả, lão lại thấy lòng rạo rực, lão muốn làm một cái gì đấy nhưng có cách nào để chiều lòng thiên hạ? Lão thấy may mắn vì mình đã quá cái tuổi cổ lai hy. Lão nghĩ rất lung, làn da trắng muốt của chị ả bỗng làm lão lóa mắt, khiến trong đầu bật ra mấy chữ mà thiên hạ đã dùng chán rồi và mấy câu thơ của bậc thi tiên nào đó. Phải, ngày xưa có ai kia đã “tập cổ” lại ba phần tư bài thơ của Vương tiên sinh, sao lão lại không thể? Lão là giáo sư, là giáo sư cơ mà, ai nghĩ một giáo sư lại đi trộm thơ! Giữa cái buổi Tây Tàu nhố nhăng này, giáo sư là một loại sinh vật “đáng quý”.

Vậy là, lão tự tuyên bố rằng sẽ tặng chị ả đôi câu đối, đôi câu đối do lão nghĩ ra. Mà ai cần quan tâm đến việc có phải lão nghĩ ra hay không? Người ta chỉ cần có cái để viết và bàn tán cho nguôi mấy ngày nhàm chán, có thể tiếp đây, câu chuyện này sẽ lan ra bên bàn nhậu, trong các quán cà phê, thậm chí còn đưa nhau cả vào nhà vệ sinh công cộng. Thật đáng tự hào thay!

Đôi tay già nua của lão vung lên và tự thấy nét bút như rồng bay phượng múa, trong khi mọi người nhìn vào chỉ thấy có nét quái dị, cái gì mà “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung.” Có người ngờ ngợ, bảo: Quái, sao mà quen thế?

Nhưng họ lại quên ngay, họ là vậy, nghi ngờ nhanh mà quên cũng rất nhanh. Danh đã chính, ngôn đã thuận rồi, lão và ả lao vào mà ôm chầm lấy nhau. Phụ nữ làm người ta mê muội, lão quên mất mình là ai rồi, lão học đòi theo lũ trẻ mà ngấu nghiến chị ả.

Một nụ hôn của tình ông cháu phải không nhỉ? – Ai cũng nói vậy và vỗ tay khen hay.

Chị ả vui mừng, lão vui mừng, mọi người đều vui mừng.

Đang là tiết xuân nhưng sao giời nóng mà đày đọa con nhà người ta thế?

– Trấn Thiên/Khâm Thiên – (Viết nhân một ngày xuân rảnh rỗi và muốn cà khịa.)

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Hai 26, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Ngắn] Hồ

image

Không có logic, không có nguyên tắc nào ở đây cả. Hãy cứ đọc và hiểu nó theo cách của riêng mình.

***

Sương mờ loãng giăng kín mọi nơi, bao quanh những ngọn cây và lả lơi ve vuốt mấy rặng núi lõa lồ ven hồ nước. Thị cứ thế lặng lẽ bước đi, hai mắt mở to gần như đờ đẫn. Thị đang ở đâu và định về đâu?

Những âm thanh ma quái quyến rũ đầy mê hoặc đang cào xé bên trong cổ họng Thị, chúng đã dập tắt quả cầu lửa mà vị thần Sự Thật gửi trao, không còn gì cả, tất cả chỉ còn lại sự dối trá và lọc lừa. Nỗi đau đớn cuộn lên, Thị chụp mạnh tay vào cổ họng của mình, miệng há hốc. Các ký tự điên loạn thi nhau tuôn ra khiến Thị phải gập mình xuống mà nôn thốc nôn tháo, đám súc sinh bẩn thỉu kia nhảy nhót khắp nơi, chúng níu áo rồi leo lên không ngừng rót vào tai Thị những ngữ điệu mê hoặc.

Giờ thì Thị là ai?

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Hai 20, 2015 in Sùng vũ môn

 

[Ngắn] Mù

ke-mu_1

“Xì! Khói! Mây! Tro tàn! Hư vô! Hãy tiếp tục đi tìm con người của ta đi, trong chuyện này ta đâu phải là kẻ duy nhất!” (Philippe Claudel)

Đang đêm về sáng, sương phủ dày khắp phố Âm Dương, mặt trời chết lặng sau khoảng không gian u ám, thả xuống nhân gian thứ ánh sáng đục nhờ, lạnh lẽo thấu xương. Luồng không khí buốt giá cứ thế thấm dần vào da thịt, dần gặm nhấm đám người lai vãng. Khối vàng thổi chảy trên cao kia đã hấp hối từ lâu, lâu đến mức không ai còn nhớ, có thể là ba mươi hay bốn mươi năm, ai mà biết được cơ chứ! Lớp người đi trước đều đã đến nơi mà họ phải đến, để lại thứ ánh sáng quánh đặc như cả một thế kỷ chất đầy bí ẩn và những nỗi đau xa vời cùng những tiếng khóc mất hút, cũng để lại đám con cháu mù loà đáng tội.

Từ khi sinh ra chúng tôi đã không biết gương mặt mình ra sao, dần dà quên cả tên cả lai lịch của bản thân. Chúng tôi là ai? Ngoài việc phân biệt đêm ngày thì chúng tôi có thể làm gì?

Nhiều năm qua, tất thảy giống như những chiếc bóng thầm lặng, đói thì ăn, khát thì uống, ăn gì cũng được, uống gì cũng xong, miễn là sống. Nhưng có một ngày kia, chúng tôi chẳng ai bảo ai mà lại quyết định cùng nhau làm một chuyến hành trình dài, đơn giản vì không người nào chịu nổi cái cảm giác đôi mắt của mình vĩnh viễn chỉ nhìn thấy một màu trắng đục. Chúng tôi lũ lượt ra đi, bỏ lại sau lưng những khóc cười, những buồn lo, giống như những kẻ đang tìm đường giải cứu thế giới. Đời thật là lạ, lại có những kẻ loà muốn làm thánh nhân?

Đường đi xa lắm, Biết đâu là điểm tận cùng. Con đường này đã từng in dấu chân ai? Đã từng lưu lại bao nhiêu giọt lệ? Đã từng nhai nát bao nhiêu kiếp người?

Tôi lắc lư thân mình, tiến về phía trước để tìm lại gương mặt của mình, tên tuổi của mình, tôi là ai?

– Bạn là ai? Hỡi anh bạn vừa vấp ngã, máu của anh bắn lên tay tôi kìa, chúng ta có quen nhau không nhỉ?

Tin tôi đi, đó là một câu chào hỏi đầy thân tình.

Đang bước đi, bỗng có tay nào đó va phải tôi, hắn muốn cản chân tôi sao? Tôi chửi thề và bắt đầu bực mình, thực ra không chỉ riêng thằng tôi mà đám người phía sau cũng đương la ó. Con người ích kỷ, trong suốt quãng đường, chúng tôi gần như phát điên, lúc nào cũng quẩn quanh câu hỏi: Đôi mắt của mình đã bị ai cướp mất? Người ta dần quên mục đích của chuyến đi, họ gào thét, họ khóc than, họ phá lên cười, họ hoá dại, nhưng nó lại chứng minh được một điều: Họ còn sống. Còn sống. Khốn nạn thay! – Có kẻ vừa thụi cho tôi ba cú vào bụng, cơn đau làm tôi co người lại, lục phủ ngũ tạng như muốn long ra đến nơi. Một kẻ mù đánh một kẻ mù. Không có mắt, không có mắt…

Tôi đã không bước tiếp, tôi điên cuồng quờ quạng, thừa cơ tóm lấy một kẻ xấu số bên cạnh, dùng chân kẹp cả người anh ta lại, bấu chặt khuôn mặt với làn da nham nhám, tay tôi mò lên trên, dần dần, và rồi có một âm thanh rất nhỏ, rất êm khẽ vang, máu trào ra từ kẽ tay tôi, máu nóng và dấp dính bắn khắp mình mẩy, tôi đã có trong tay đôi con ngươi đẹp đẽ. Bạn đã từng nhìn thấy một tay đồ tể chưa, một tay đồ tể lăm lăm lưỡi dao nhuốm máu với chiếc tạp dề hôi đến lộn mửa? Đó hẳn là hình ảnh của tôi lúc này phải không? Chàng trai kia chắc là đau lắm, anh ta gào rú điên cuồng, toàn thân run bần bật như lên cơn. Tôi ghì mạnh chân, cười dịu dàng:

– Cảm ơn nhé, anh bạn trẻ.

Lại một câu cảm ơn chân thành.

Mắt, mắt… Tôi trân trọng nó xiết bao, mừng quá, tôi vội lắp thêm vào đôi hõm tối, nhưng sao tôi vẫn mù thế này? Hai viên ngọc quý rơi ra trong sự sững sờ của tôi, lũ chuột không rõ từ đâu lao tới, chúng cười khanh khách và cắp đôi mắt đi mất. Tôi đứng chết trân, mình mẩy như bị khoét rỗng.

Tiếng gầm rú vang lên khắp nơi, tất cả lao vào cắn xé và ăn thịt lẫn nhau, tiếng nhai nghe rau ráu khiến người ta thèm thuồng. Bạn có ngửi thấy mùi máu rất ngọt chăng? Đó là một món quà đủ để làm con người say mê. Nhưng tôi không có đủ can đảm để thưởng thức nó, tôi guồng chân đào thoát.

Tôi cứ chạy, hai chân rã rời mất hết cảm giác, đầu óc ong lên, cổ họng nghẹn bứ đắng ngắt. Từ phía sau truyền đến một chuỗi âm thanh rầm rập, mặt đất rung chuyển, rền rĩ không thôi, cơ hồ đất mềm sắp sụt lở dưới chân. Vậy là, chúng tôi cùng chạy, kẻ là con mồi, kẻ là người đi săn, thảy giẫm đạp lên nhau, sợi tơ mong manh giữa ranh giới của phần con và phần người bị kéo đứt hoàn toàn. Tôi bỗng thấy lạc lõng, không khí quánh lại siết chặt lấy mình, trong đầu bỗng hiện lên hình ảnh những của những cánh hoa mềm mại, ngát hương mà bản thân chỉ có thể cảm nhận qua xúc giác trên từng đầu ngón tay, đó là những đoá hoa buồn rầu, chẳng bao giờ cười cũng chẳng bao giờ khoe sắc.

Tôi ước mình có thể chạy mãi như vậy, chạy với hy vọng phía trước là một cánh đồng hoa thơm ngát, tôi sẽ ngả mình vào đấy, sẽ để chúng ôm lấy cơ thể, hiền lành và dịu dàng giống như một bà mẹ. Tôi như sắp bay lên, sẽ không có đám người điên dại vì mất đi ánh sáng, sẽ không có con thú và kẻ đi săn, sẽ không còn những cái bóng vật vờ thối rữa, tất thảy sẽ trở nên thanh khiết hơn bao giờ hết, con người sẽ trở thành những thiên thần đẹp đẽ. Quên hết máu me, quên hết những buồn đau và mọi thứ trở về vạch xuất phát…

Tôi đang bay đến chân trời mơ ước thì đã bị thứ gì đó tóm lấy cổ và ném phịch xuống, một cú rơi ngoạn mục, một cú rơi đầy đau đớn có khả năng giết chết con người khi giấc mộng của anh ta tan vỡ. Tôi lại nghe thấy tiếng cười của lũ chuột, đau chưa!

Giờ đây, bức tượng đó đang chắn trước mặt tôi, chính nó là biến thể phá nát ước mơ đẹp đẽ kia. Tôi nhặt lên tay những mảnh ước mơ trong trắng, chúng nhanh chóng tan đi trong gió như chưa từng xuất hiện. Không đáng ngạc nhiên khi tôi lại trút mọi tội lỗi lên nó, theo bản năng, tôi ngẩng đầu, hướng đôi mắt loà lên cao. Và, bạn có biết không? Tôi nhìn thấy, đúng, tôi nhìn thấy một tia sáng vàng óng đẹp và mềm như mộng theo ý nghĩa rốt ráo nhất của nó. Sợi sáng rỏ xuống bức tượng để lộ một khuôn mặt hiền từ, đôi mắt thánh thần hơi buông xuống nhìn nhân loại ra chiều thương cảm và cũng như đang chế giễu sự ngu muội của bọn họ.

Tìm làm gì con đường phủ đầy xương trắng và nhuốm đầy máu tươi, tìm làm gì lối thoát chỉ có trong tưởng tượng.

Tôi phá lên cười.

Đám người phía sau cũng đã chạy đến nơi, họ tàn sát nhau dưới chân thần linh mà không hề nhìn thấy tia sáng ấm áp trên cao, lú lẫn hết cả rồi. Tôi tóm chặt lấy bức tượng tựa một con thằn lằn và bắt đầu trèo lên, nó quá cao, quá lớn, nó đã đứng ở đây bao nhiêu năm? Đã cướp mất bao nhiêu ánh sáng? Càng lên cao, tôi càng nhìn rõ mọi thứ, phía dưới là một cảnh tượng đầy hỗn loạn, đầy máu me, những giọt nước mắt và sự mù loà giả tạo.

Mặt trời đỏ rực như lửa đang đối diện với tôi, nó chưa từng chết, xa xa là cánh đồng hoa chen tía nghìn hồng chạy dọc tới chân trời, gió mát dịu quấn vào cổ tôi một chiếc khăn lụa mỏng, chúng reo:

– Bạn hiền ơi, hãy ngồi xuống nói chuyện với chúng tôi nào.

Lũ chuột kêu chít chít trên vai tôi, cổ họng phát ra những âm thanh lục khục. Tôi mỉm cười, dang rộng cánh tay và thả mình ôm trọn lấy những cánh hoa mềm, bên tai vẫn lưu lại tiếng cười của lũ chuột tinh quái.

Tôi mơ một giấc mơ, trong mơ của tôi cả phố Âm Dương bừng sáng, không có màn sương quánh đặc, không có những người mù loà, không có những đoá hoa buồn rầu, không có lũ chuột bẩn thỉu. Tôi thấy chúng tôi đang nhìn nhau, những gương mặt đã trở nên biến dạng, thảy đều cười trừ, miệng méo xệch. Chúng tôi đã mù bao lâu? Con người đáng thương, kẻ vỗ ngực tự phụ, kẻ ra vẻ thánh nhân, kẻ lang thang trên con đường tìm lại ánh sáng mà chẳng ai biết mình chỉ đang diễn một vai hề trong vở hài kịch vĩnh viễn không đến hồi kết thúc của tạo hoá. Buồn cười nhỉ, tôi cũng vậy, là một tên hề mua vui không hơn không kém.

Quên hết máu me, quên hết những buồn đau, quên bức tượng thánh thần và mọi thứ trở về vạch xuất phát…

Tôi cũng là một tên hề.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Một 29, 2015 in Sùng vũ môn

 

Bài văn truy niệm các anh hùng liệt nữ có công chống ngoại xâm – Nguyễn Sỹ Giác –

494_hoangthanh2

Lạc Hồng muôn dặm, cuộc tang thương bày hết nỗi đa gian,
Da báo ngàn thu, bậc anh kiệt còn lưu hồn bất tử.
Cảo thơm lần giở, nét chữ khôn nhoà.
Nhờ khí thiêng chung đúc mãi anh tài,
Khiến đất nước vững bền cùng vũ trụ.
Qua bao thế hệ, tinh thần dân tộc đã nâng cao
So với hoàn cầu, sự nghiệp vĩ nhân nào có kém.
Kể từ lúc Bắc triều đô hộ, cho đến khi Nam đế sơn hà,

Quốc gia tuy trải mấy hưng vong,
Cơ nghiệp vẫn trở về thống trị,
Cửu Chân, Giao Chỉ đứng đầu hai tướng tiên phong,
Đinh, Lý, Trần, Lê nối dõi mấy triều chính thống.
Sông Bạch Đằng, hồ Lãng Bạc, chiến lược tung hoành,
Cửa Hàm Tử, ải Chi Lăng, vũ công lừng lẫy.
Thắng tướng Minh trên Cô Độ,
Phá quân Mãn ở Thăng Long.
Mỗi lần ngựa sắt có công,
Bốn cõi bình vàng không chuyển.

Chống gươm báu bao phen ra mặt trận binh qua khôn xiết nỗi gian lao,
Xếp áo nhung sau lúc đuổi quân thù, non nước lại gia công xây dựng.
Mỗi lúc cơ trời trao họ khác, âu cũng là định số của tiền triều,
Lỡ khi vận nước mắc tay người, đó mới thật vết tang trong lịch sử.
Những tưởng câu thơ “định phận” cõi miền Nam riêng một giải dư đồ,
Nào ngờ cường địch ngoại xâm, non một kỷ lại trong vòng trói buộc,
Trước từ Lục tỉnh, sau khắp ba kỳ,

Thù nước nhà há chịu đội trời chung.
Lòng chí sĩ quyết cùng theo nghĩa cả.
Mở đầu kháng chiến, Tân An, Rạch Giá, Gò Công,
Theo lối xung phong Hà Tĩnh, Ba Đình, Bãi Sậy.
Trên vũng bể mỏ chim ngậm đá, mối hận mênh mông,
Chốn sa trường da ngựa bọc thây, anh hồn lẫm liệt,
Trải mấy độ ra tay phấn đấu, công việc cần vương.
Kế bao năm sôi nổi trong ngoài, phong trào cách mạng.

Các nhà lãnh đạo lên tiếng hô hào,
Theo chù nghĩa của Trung Sơn.
Nhằm thời cuộc ở Đông A!
Cuốn huyết thư lưu truyền từ hải ngoại,
Tờ chính kiến phát biểu với thời gian.

Nêu thuyết tự cường, khuyên đoàn du học,
Tuyên truyền đủ cách, hưởng ứng bao người,
Lưu vong khắp Trung Hoa, Nhật Bản, Hương Cảng, Thái Lan.
Hoạt động nhất Quang Phục, Chiêu Dương, Quốc Dân, Tân Việt.
Cơ mưu đã rắp, tiên cố quân cỏi rẻ ngai vàng

Sống mái mấy phen, đoàn nghĩa sĩ rơi bao máu đỏ
Đời có ta phải là dân có nước,
Lo ở ngoài mà thành sự ở trời.
Xem việc xưa nay, một phen kinh nghiệm.
Mưu phục quốc khởi đầu dù có bại,
Việc tày trời làm mãi mới nên công
Ngàn xưa anh hùng, một bầu tâm sự,
Kẻ thù gai mắt, nợ nước đè lưng,
Làm tài trai nên qua hết khó khăn,
So thế lực có kể chi mạnh yếu.
Vì nước đã coi thường tính mạng, sống là không nên cái chết như không,
Ra đời nào nghĩ đến đỉnh chung, buồn đành có mặc khi vui chẳng có.

Tinh thần ấy thiêng liêng bất diệt, gương sáng treo cao,
Công đức kia đền báo về sau, sử xanh ghi chép,
Phất cờ khởi nghĩa, nước non chung đai mũ quần thoa
Thảo hịch thề quân, công nghiệp cả bút nghiên cung kiếm.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Một 29, 2015 in Sùng vũ môn

 

Bản phác họa nhân vật cho Sùng Vũ Môn

Phạm Bảo Lâm và Đào Thiên Lang. Người vẽ: Cáo Ngâm Đường. (Bản chưa lên màu)

10877462_352384798282794_2041673296_n

 
8 bình luận

Posted by trên Tháng Mười Hai 30, 2014 in Sùng vũ môn

 

[Oneshot] BLIND

image

Writer: Tran Thien (Trấn Thiên)
Translator: Vu Trung (Vũ Trung)

It’s about to be dawned. The Yin-Yang lane of our town is enveloped in dull morning smog. The rising sun’s suspended in its track at the end of the vast grey offing as it’s looming over the horizon, writhing helplessly in its effort to effuse the few bone-chilling bleached sunrays through the thicket of dark cloud. The frostbites gradually spread throughout the bodies of the passer-bys, seizing them one by one. The dying sun hasn’t shown any sign of life for a long while, at least thirty or forty years, not that any one is keeping track of that. Our forefathers have already gone off to their destination, leaving behind the baggage of imperviously yellowish blackhole encapsulating a century of untold hush-hush confidence, the forgotten grieves, the unanswered prayers and unheeded offsprings.

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Hai 7, 2014 in Sùng vũ môn

 

Bản phác họa nhân vật cho Sùng Vũ Môn

Phạm Bảo Lâm.
Hoạ sĩ: Cáo Ngâm Đường.
Bản chì chưa lên màu.
image

 
21 bình luận

Posted by trên Tháng Mười Hai 1, 2014 in Sùng vũ môn

 

[Ngắn] Hoa đăng trôi mãi.

151f2bcaa39cfb4bd0772c777a2b146fb2e1820f5b8d-k6tEeZ_fw658

Gửi tặng những mối tình đầu chết yểu và chàng kỵ sĩ của tôi.

 

1.

Bỏ xa những cơn mưa dai dẳng cuối hạ đặc trưng của miền Bắc, tôi và Ái đến Hội An khi cái nắng gay gắt đang bao phủ chốn đây. “Miền đất của mặt trời” – tôi nhớ mình từng đọc được câu này ở trong một văn bia nào đó nói về dải đất miền trung rất mực hiền hậu, nơi có khả năng chữa lành mọi vết thương trong lòng mỗi con người. Hơi biển mặn lẩn khuất, ẩn trong gió táp vào da làm Ái than thở mãi, thấy tôi trầm mặc, em hỏi:

– Chị có muốn viết gì đó về Hội An không?

Tôi chỉ biết mỉm cười.

Từ khi kỵ sĩ bỏ đi, tôi thường mơ thấy Hội An, mơ thấy những con người hiền hòa nồng hậu, mơ thấy ánh nắng rực rỡ dường như không bao giờ tắt phủ khắp các đường phố dọc ngang nơi ấy, mơ thấy những giàn hoa giấy xinh đẹp, những mảng rêu phong loang lổ chỉ mong lấp kín những vết nứt thời gian trên các bức tường cổ kính. Và, tôi mơ thấy chàng kỵ sĩ của mình – Vẫn với vẻ lịch lãm như xưa, anh sải bước dọc con phố đang bày bán đầy những con tò he bằng đất nung. Tôi giật mình, tôi gọi theo, gọi mãi, gọi cho tới khi cổ họng bỏng rát, anh mới dừng bước.  Tôi thầm cầu xin anh hãy ngoảnh lại, tôi muốn ngắm nhìn lại khuôn mặt anh một lần nữa. Nhưng đột ngột, dòng người tự chốn nao kéo đến nhấn chìm anh. Không kịp nữa…

Thời gian giống như một dòng sông lững lờ chảy xuôi, nom thì êm đềm nhưng lại tàn nhẫn đến mức sẵn sàng cuộn sóng bào mòn hết thảy, tôi hầu như không còn nhớ được gương mặt của anh nữa. Dù đã đôi lần cố hồi tưởng lại nhưng nét bụi bặm năm xưa khiến tôi sao xuyến đã nhòe mờ. Tôi quay sang thì thào với cô em gái bé nhỏ đang ngơ ngẩn trước một căn nhà cổ:

– Ái ơi, chị ước gì mình và kỵ sĩ đã chụp thật nhiều ảnh, lưu giữ thật nhiều khoảnh khắc. Bây giờ, đến một chút hình ảnh người ấy mà chị cũng không nhớ được…

Em lặng người nhìn tôi, nói:

– Nhân vật của Duyệt Nhiên bảo khi khóc gương mặt người ta sẽ bị lấm lem, mà giờ gương mặt chị lại lấm lem cả rồi.

Tôi mỉm cười:

– Chị có một câu chuyện…

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 6, 2014 in Sùng vũ môn

 

[Ngắn] Tàn – Trấn Thiên.

Đêm buông xuống, vầng trăng trong trẻo hào phóng ban cho nhân gian muôn sắc ngọc, Hà Nội đã lui về sau một ngày hối hả nhuốm mùi thuốc súng và dây thép hòng nghỉ ngơi dưỡng sức. Để rồi bước ra trong vẻ ngoài bảnh bao với những bộ trang phục lộng lẫy, nhón chân vào Thuỷ Tạ, Khâm Thiên, ngây ngất trong tiếng đàn ca sênh phách, cẩm y ngọc thực cùng những phồn hoa một thời.

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 6, 2014 in Sùng vũ môn

 

Nhãn:

[Truyện ngắn] Đứa con trong lâu đài cổ

2310201004MontSaintMichel

 

Lâu đài này được xây từ khi nào, không một ai biết rõ. Xung quanh nó mọc toàn cỏ dại, cây bụi và những dây leo chằng chịt đầy gai, rêu phong đã phủ kín hầu hết những bức tường cũ kỹ. Khu vực lâu đài vô cùng âm u, lạnh lẽo, nhưng cũng đầy mê hoặc. Nó luôn khiến cho những kẻ đang bơ vơ, thèm khát tìm nơi gửi gắm danh tiếng ngoài kia vô thức bước vào và tận hiến.

Lại một ngày mưa, cơn mưa này đã bắt đầu từ sáng sớm và rả rích tới tận trưa. Có đôi quạ một già một non đang đứng rỉa lông trên mái, chúng nó nhìn ra ngoài cổng lâu đài, quan sát nhất cử nhất động của khối sắt han rỉ đầy, con non nhanh nhảu bảo: “Ầy, lại có người tới.”

Con quạ già càu nhàu: “Là nam hay nữ? Mắt ông dạo này kém quá, nhìn không rõ! “

Quạ non reo vui: “Ồ, phụ nữ ông ơi, lần này là phụ nữ, lâu rồi mới thấy có phụ nữ tới!”

“Xì, rồi cô ta cũng sẽ bỏ xác lại thôi, bao người đã đến rồi chẳng về được nữa. Toàn những kẻ không biết lượng sức mình!” Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 7, 2014 in Sùng vũ môn

 

Quy khứ lai từ – Đào Uyên Minh.

Uyên

Đi về sao chẳng về đi,
Ruộng hoang vườn rậm còn chi không về?
Đem tâm để hình kia sai khiến
Còn ngậm ngùi than vãn với ai?
Ăn năn thì sự đã rồi,
Từ đây còn lại, biết thôi mới là.
Lối đi lạc chưa xa là mấy,
Nay khôn rồi chẳng dại như xưa.
Con thuyền thuận nẻo gió đưa,
Gió hây hây áo thuyền lơ lửng chèo.
Hỏi hành khách lối nào đi tới,
Bóng mập mờ trời mới rạng đông.
Miền quê nẻo trước xa trông,
Chân hăm hở bước đường mong tới nhà.
Chạy đón chủ năm ba đầy tớ,
Đứng chờ ông mấy đứa trẻ con;
Rậm rì bao xóm con con,
Mấy cây tùng cúc hãy còn như xưa.
Tay dắt trẻ vào nhà mừng rỡ,
Rượu đâu đà sẵn chứa đầy vò;
Thoạt ngồi tay đã nghiêng hồ,
Cười nom sân trước thấp tho mấy cành.
Ngồi rễu cợt một mình trước sổ;
Khéo cũng hay vừa chỗ rung đùi;
Thăm vườn dạo thú hôm mai,
Cửa dù có, vẫn then cài như không.
Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên:
Mây đùn mấy đám tự nhiên,
Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
Quanh gốc tùng tựa mát thảnh thơi.
Từ đây về thực, về rồi,
Thôi xin từ tuyệt với người vãng lai.
Vì ta đã với đời chẳng hiệp,
Cần chi mà giao thiệp với ai!
Chuyện trò thân thích mấy người,
Bạn cùng đèn sách khi vui đỡ buồn.
Người làm ruộng ôn tồn hỏi chuyện,
Tới xuân rồi sắp đến việc ta.
Hoặc truyền sắm sửa câu xa,
Hoặc khi đủng đỉnh thuyền ra coi đồng.
Dưới khe nọ nước vòng uốn éo,
Bên đường kia gò kéo gập ghềnh;
Cỏ cây mơn mởn màu xanh,
Suối tuôn róc rách bên ghềnh chảy ra.
Ngắm muôn vật đương mùa tươi tốt,
Ngán cho ta thôi trót già rồi.
Thôi còn mấy nỗi ở đời,
Khứ lưu sao chẳng phóng hoài tự nhiên,
Cớ chi nghĩ thêm phiền tức dạ,
Đi đâu mà tất tả vội chi?
Giàu sang đã chẳng thiết gì,
Cung tiên chưa dễ hẹn kỳ lên chơi!
Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
Việc điền viên vất vả mà vui.
Lên cao hát một tiếng dài,
Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu.
Hình thể này mặc dầu tạo hóa,
Tới lúc nào hết cả thì thôi.
Lòng ta phó với mệnh trời,
Đừng ngờ chi nữa cứ vui vẻ hoài!

 

(Bản dịch: Từ Long)

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2014 in Sùng vũ môn

 

Ai Sính – Khuất Nguyên.

oripic

Cơ trời thực khôn lường thay đổi
Trăm họ kia nào tội lỗi gì!
Cùng nhau tan tác chia lìa
Giữa xuân tháng ấy, ta thì sang đông
Bỏ quê cũ tới vùng xa lạ
Theo dòng sông Giang, Hạ lênh đênh
Đau lòng ra khỏi cửa thành
Sớm mồng năm lúc sắm sanh lên đường
Xiết bao nỗi bàng hoàng bực bội
Lìa cửa nhà ra khỏi Sính đô
Mái chèo lơ lửng bơi đua
Xót mình xa hẳn nhà vua tự rày!
Qua Hạ Thủ sang tây trông lại
Cửa thành rồng nhìn mãi thấy đâu!
Thở dài ngắm dãy cây cao
Rưng rưng nước mắt tuôn trào như sương
Lòng đòi đoạn đau thương mê mệt
Đến đâu rồi, nào biết là đâu
Thuận dòng gió cả, sóng sâu
Bơ vơ đất khách đẫm màu thê lương
Qua Dương Hầu mênh mang nước ngập
Thuyền lượn lờ biết cập bến nao?
Trái tim không thắt mà đau
Vấn vương mối nghĩ buộc vào tự nhiên
Xuống sông cả lại lên bờ rộng
Thả con thuyền lêu lổng rong chơi
Xa lìa quê cũ ngàn đời
Chiếc thân này lúc lạc loài sang đông
Hồn vơ vẩn hằng mong trở lại
Nhớ chốn xưa sớm tối nào khuây
Quay lưng nhìn với phía tây
Đô thành xót nỗi mỗi ngày một xa
Lên cồn lớn trông ra man mác
Hoạ tấm thương khuây được một vài
Từ bến sông đến bãi ngoài
Xót thay nào vẻ yên vui ngày nào?
Chỉ Lăng Dương biết bao ngày tới
Qua bến nam biết lối nào đi?
Đến đài: đống đất đen xì
Cửa Đông: cỏ mọc xanh rì biết đâu!
Lòng buồn bã bấy lâu xiết nói
Mối lo này tiếp mối lo kia
Đường về đất Sính xa ghê
Sông Giang, sông Hạ khôn bề lội qua
Nào ai biết đi là đi hẳn
Chín năm ròng lận đận chốn này
Xót xa vãng chịu đã đầy
Thảm thương ai thấu nỗi này cho ai!
Vui, vui gượng mặt ngoài hỷ hả
Đau, đau ngầm bên dạ thiết tha
lòng trung mong giúp nước nhà
Ghét ghen bọn chúng cố mà bưng che
Kìa Nghiêu, Thuấn ai bì cho được
Đức nết hay sực nức tận trời
Dèm pha chúng đặt nên lời
Phao cho mang tiếng là người bất nhân!
Chẳng thích kẻ mươi phần tốt đẹp
Chỉ mong người một kiếp long đong
Lũ gian ngày một tiến đông
Người hiền đành lẽ ngoài vòng lánh xa

Vãn rằng:
Nhìn quanh đã mỏi mắt ta
Mong về mong mãi dễ mà được đâu!
Cáo chết ắt quay đầu núi cũ
Chim bay còn nhớ tổ rừng sâu
Đuổi ta ta tội gì đâu
Còn đời, còn nhớ ngày nào chưa quên

 

( Bản dịch của Nhượng Tống)

 

Ly tao – Khuất Nguyên.

Ly tao – Khuất Nguyên

giang nam

“Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ,
Vốn dòng vua về họ Cao Dương.
Tháng giêng đầu tiết xuân sang,
Cõi đời ta xuống giữa đương ngày Dần.
Buổi trứng nước ân cần chăm sóc,
Biết bao nhiêu khó nhọc công cha.
Chữ hay kén đặt cho ta:
Tên là Chính Tắc, tự là Linh Quân.
Trong ta đã mười phần lộng lẫy,
Chải chuốt càng thêm nẩy xinh tươi.
Sói ngàn nhài bãi khoác ngoài,
Tết lan thu lại làm đai đeo thường.
Sợ chẳng kịp ta càng mê mải,
Tuổi xanh nào có đợi gì ai.
Mộc lan sớm cắt trên đồi,
Ðông thanh chiều hái bên ngoài bến sông.
Ngày tháng vút đi không trở lại,
Vừa xuân qua đã lại thu sang.
Ðoái trông cỏ áy cây vàng,
Sợ con người đẹp muộn màng lỡ duyên!
Tuổi đang trẻ nết quen càn rỡ,
Thế mà không đổi sửa cho đành.
Ngựa hay cưỡi lấy, đi nhanh,
Lại đây ta chỉ cho mình đường quang.
Ðời ba vua thuở đang rực rỡ,
Các giống thơm hớn hở đua tươi.
Hoa tiêu, hoa quế lộn mùi,
Cứ gì hoa huệ được người yêu đương.
Theo đạo chính nhằm đường ngay thẳng,
Nghiêu Thuấn xưa thiệt đấng minh quân.
Cớ sao Kiệt Trụ ngu đần,
Ðâm đầu lối tắt sa chân đường cùng.
Hám vui bọn chúng không biết sợ,
Ðường tối tăm hiểm trở xiết bao.
Xe loan e lúc đổ nhào,
Phải rằng ta sợ thiệt vào đến thân!
Cố theo kịp gót chân vua trước,
Quản chi công xuôi ngược long đong.
Tình ta mình chẳng xét cùng,
Nghe lời ton hót đem lòng giận ta!
Nói thẳng vẫn biết là có hại,
Biết vậy mà nín mãi không đành!
Chín lần trời hãy chứng minh,
Chỉ vì ta quá yêu mình đấy thôi!
Trước cùng ta nặng lời hẹn ước,
Sau vì đâu đổi khác đơn sai?
Biệt ly ta chẳng quản nài,
Xót mình lòng dạ đổi dời bao phen.
Chín vườn lan lại nghìn sào huệ,
Một mình ta chăm chỉ hôm mai.
Tử tiêu bạch chỉ xen vai,
Kẹ trong đỗ nhược, bao ngoài tân di.
Mong cành lá có khi đua nẩy,
Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi.
Bỏ rơi ta thiết chi đời,
Thấy trăm hoa chịu lạc loài mà thương!
Chúng chen chúc trên đường vụ lợi,
Tấm lòng tham, tham mãi tham hoài!
Ðem dạ mình đọ bụng người,
Sinh lòng ghen ghét, đặt lời gièm pha.
Mồi phú quý cố mà đeo đuổi,
Phải lòng ta có vội thế đâu.
Cái già sồng sộc theo nhau,
E không để được về sau tiếng lành.
Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc,
Uống sương sa dưới gốc mộc lan.
Tình yêu khôn đẹp muôn vàn,
Khát hoài! đói mãi! phàn nàn mà chi!
Rút rễ cây ta xe sợi chỉ,
Xâu cánh hoa thiên lý xinh xinh.
Cánh lan cánh huệ trắng tinh,
Giây ngần bền dẻo tết manh áo ngoài.
Áo như thế thói đời chẳng mặc,
Ta cứ theo phép tắc người xưa.
Dẫu rằng đời có chẳng ưa,
Thì xin theo lối cũng như Bành, Hàm.
Ðời người khổ kể làm sao xiết!
Ðành than dài gạt vết lệ hoen.
Làm xinh ta khéo vô duyên,
Sớm vừa can gián chiều liền sa cơ.
Sa cơ mặc nhởn nhơ vẫn thế,
Vẫn đeo lan dắt huệ như xưa.
Lòng ta đã thích đã ưa,
Dẫu rằng chín chết có chừa được đâu.
Trách mình chẳng suy sau xét trước,
Mãi mãi không rõ được thói đời.
Chúng ghen ta có mày ngài,
Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ.
Người đời thật đã thừa khôn khéo,
Ðua nhau theo mức vẹo thước cong.
Khuôn vuông mẫu thẳng chẳng dùng,
Cúi luồn cầu cạnh một dòng như nhau!
Một mình chịu nuốt sầu ngậm tủi,
Nói ai hay nông nỗi lúc này?
Thà cho sống đọa thác đày,
Lòng ta không nỡ để lây thói thường!
Loài chim cắt ngang tàng bay bổng,
Vốn xưa nay là giống không đàn.
Vuông tròn vốn chẳng cùng làn,
Khúc đường ai để yên hàn cho ai?
Tránh điều lỗi, mặc đời xoi mói!
Nén chí xưa, cam nỗi xót xa.
Thánh hiền xưa cũng như ta,
Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong!
Tiếc nhận lối mà không biết lối,
Liệu về thôi, ở lại chi lâu?
Lạc đường cũng chửa xa đâu,
Quay xe trở lại cho mau còn vừa.
Giục vó ngựa lên bờ lan dã,
Sang gò tiêu thong thả nghỉ ngơi.
Tiến ra chẳng hợp với đời,
Lui về sửa lại mặc ngoài cho xinh.
Hái sen súng, cắt manh áo đẹp,
Cắt phù dung may nếp xiêm dài.
Ðời không biết đến mặc đời,
Tình ta vẫn hẳn vẹn mười thơm tho.
Mũ ta đội xốc cho cao ngất,
Ðai ta đeo buông thật dịu dàng.
Khắp mình thơm nức sáng choang,
Ðẹp còn giữ được chất thường chưa phai.
Chợt quay lại liếc chơi, ta muốn
Ði xem cho khắp bốn cõi hoang.
Rung rinh bao thú điểm trang
Ngọt ngào càng thấy rõ ràng mùi thơm.
Ðời ai cũng riêng ham từng món,
Như ta đây chỉ muốn làm xinh.
Phân thây xé xác cũng đành,
Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao?
Tiếng cô chị bước vào léo xéo,
Mắng ta rằng rõ khéo ngẩn ngơ,
“Bướng như chàng Cổn ngày xưa,
Bỏ mình núi Vũ bây giờ ai thương?
Sao em thích khoe khoang chải chuốt,
Riêng một mình giữ một vẻ xinh?
Ðầy nhà dây dợ, cỏ tranh,
Người ta mặc cả sao mình lại không?
Nói với chúng dễ hòng nói xiết!
Ai là người xét biết lòng ta?
Ðời đều bè đảng gian tà,
Một mình ta nói, nói mà ai nghe?”
Trong đạo thành liệu bề theo dõi,
Ðến chi đây xiết nỗi tân toan.
Sang Nam qua ngọn Tương Ngoan,
Tới đền vua Thuấn, ta than vài lời:
“Mê hát xướng kìa đời nhà Hạ,
Vua Thái Khang thỏa dạ vui chơi,
Chẳng lo chẳng nghĩ lâu dài,
Năm con mới phải lạc loài bốn phương.
Vua Nghệ chỉ ham đường săn bắn,
Say chim muông quên hẳn việc thường.
Tham vui vua Xác hoang toàng,
Cả hai đều phải thịt xương tan tành!
Ðến vua Ngáo cậy mình sức khỏe,
Chẳng giữ gìn chỉ phí ăn chơi.
Quên mình ngày tháng giông dài,
Quá ra khi đã để rơi cả đầu.
Hạ Kiệt có biết đâu đạo cả,
Lần lữa trông tai vạ đến nơi.
Vua Tân ướp món thịt người,
Cũng vì thế mới hết đời nhà Thương!
Lại xét đến Vũ, Thang, Văn, Võ
Kính mà nghiêm chẳng bỏ đạo hằng.
Cất dùng toàn bọn tài năng,
Theo khuôn giữ mực thẳng băng một chiều.
Ông trời chẳng riêng yêu ai hết,
Xem thấy ai đức nết thì nên.
Xưa nay chỉ bậc thánh hiền,
Thương dân mới được cầm quyền trị dân.
Trông sau trước xét lần sự thế,
Hãy để tâm suy nghĩ cho cùng.
Làm đâu được việc bất công!
Những phường bất nghĩa có dùng được đâu.
Lòng này nghĩ trước sau như một,
Dẫu chết ngay chẳng chút nôn nao.
Người xưa oan thác biết bao,
Theo vuông lựa có vào sao lỗ tròn.
Nức nở khóc cho buồn đầy dạ,
Tủi cho thân sinh đã lỗi thời!
Gạt sầu bứt cánh huệ tươi,
Áo khăn lã chã lệ rơi ướt đầm!
Quỳ khép áo lầm rầm khấn vái:
“Xin dốc theo lẽ phải đường ngay!”
Quay ra đạp gió rẽ mây,
Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,
Ðến thần linh xa ngó cõi ngoài.
Chốn này muốn tạm nghỉ ngơi,
Chiều hôm bảng lảng mặt trời xuống nhanh.
“Hy Hòa hỡi nể tình ta với!
Lối non đoài chớ vội xông pha.
Quản bao nước thẳm non xa,
Ðể ta tìm kiếm cho ra bạn lòng!”
Cho ngựa uống bên đồng Dục Nhật,
Buông dây cương ở đất Phù Tang.
Nhởn nhơ chốc lát dọc đường,
Bẻ cành nhược mộc chăng ngang mặt trời.
Chị trăng phải nhanh chân tiến trước,
Dì gió cho lần bước theo sau.
Chim loan mở lối đi đầu,
Nhưng thầm sấm sét dốc hầu chưa xong!
Ta giục phượng gia công bay mãi,
Suốt ngày đêm rong ruổi cho mau.
Cơn giông bão táp theo hầu,
Cầu vồng mống cụt đem nhau đến chào.
Khắp các ngã trước sau tới tấp,
Ðủ mọi mầu trên dưới tơi bời…
Ta truyền mở cửa nhà trời!
Lính canh lại tựa cửa ngoài nhìn ta.
Người mỏi mệt trời đà sẩm tối,
Ðứng bơ phờ tay với bông lan.
Cõi đời nhơ đục muôn vàn,
Ghét tài, ghét đẹp, thói càn đã quen.
Sớm dóng ngựa qua miền Bạch Thủy,
Lên Lãng Phong ta sẽ dừng cương.
Không ai là gái đảm đang,
Trông về nước Sở gạt hàng lệ rơi.
Chơi cung Xuân này nơi thanh nhã,
Ðeo dắt thêm hai đóa hoa quỳnh.
Hoa tươi còn chửa lìa cành,
Xem ai là gái hữu tình ta đưa.
Sai thần mây đi mưa về gió,
Cung Phục Phi tìm rõ tới nơi.
Mối may ta lại cậy người,
Cởi dây đeo để ngỏ lời giao đoan.
Trải mấy độ qua ngàn vượt núi,
Bỗng dọc ngang đường lối khó thông.
Chiều hôm về nghỉ non Cùng,
Sớm ra gội tóc trên sông Vị Bàn.
Nàng cậy đẹp khinh nhờn quen thói,
Quên tháng ngày, mê mải dong chơi.
Ðẹp nhưng mất nết xin thôi,
Bỏ tìm chốn khác lấy người đoan trang.
Vùng trời rộng bốn phương man mác,
Xem khắp rồi lại bước xuống đời.
Hữu nhung trông với cõi ngoài,
Long lanh đền ngọc thấy người gái xinh.
Mượn chim trấm mối manh nói hộ,
Trấm trả lời: “Việc đó không xuôi!”
Kìa chim tu hú dại đời,
Ta còn ghét nó là loài tinh ranh.
Mình khuây khỏa lấy mình chẳng nối,
Lòng hồ nghi trăm mối vấn vương.
Chịu lời ta đã phượng hoàng,
Chỉ e ta đến sau chàng Cao Tân.
Xa tìm chốn yên thân chẳng có,
Ðành lênh đênh đây đó biết sao!
Thiếu Khang đang lúc ba đào,
Họ Kiều hai gái sánh vào vừa xinh.
Lý đã kém mối manh lại vụng,
Chỗ hẹn lời e cũng không bền.
Người đời bẩn tưởi nhỏ nhen,
Chuộng bên gian ác, ghét bên hiền tài.
Buồng the đã là nơi cách trở,
Nhà vua còn đang cữ mê say.
Ôm lòng biết ngỏ ai hay,
Bước đời nhịn mãi nước này được sao.
Chẻ nắm quẻ Quỳnh-mao làm thẻ
Mượn Linh-phân gieo quẻ nhân duyên.
Quẻ rằng: “Ao ước thì nên,
Bên tài bên sắc đôi bên cùng lòng.
Nghĩ chín cõi mênh mông rộng rãi,
Phải riêng đây có gái kén chồng?
Ðường xa xin chớ ngại ngùng,
Người xinh ai chẳng đem lòng khát khao?
Cỏ thơm kể nơi nào chẳng có,
Thương tiếc chi quê cũ nữa anh!
Quáng lòa bao kẻ chung quanh,
Dở hay ai xét cho mình nữa đâu!
Lòng yêu ghét khác nhau biết mấy!
Bọn chúng coi thật thấy lạ đời.
Cỏ hôi đeo dắt đầy người,
Hoa lan thơm ngát chê bai chẳng dùng.
Loài cây cỏ còn không phân biệt,
Giống ngọc lành xét biết đâu mà!
Phân tro xếp đống đầy nhà,
Cánh hồi cánh quế chê là không thơm”
Quẻ dạy thế, ở làm chi nữa!
Nhưng lòng còn lưỡng lự chưa đi.
Chiều nay sắp đặt lễ nghi,
Mời Vu Hàm lại ta thì hỏi han.
Chín dãy núi chập chờn đón rước,
Trăm vị thần chững chạc tới nơi.
Hào quang rực rỡ đầy trời,
Vì ta dạy hết mọi lời thủy chung.
Rằng: “Lên xuống cố công tìm hỏi,
Ai cùng mình khuôn lối như in.
Vũ, Thang kén lựa tôi hiền,
Chí Cao Dao được chúng tin yêu vì.
Quả là đẹp cứ gì tốt mối!
Giá ngọc lành há phải bán rong!
Duyệt xưa đắp đất ngoài đồng,
Vũ Ðinh tìm gặp tin dùng chẳng nghi.
Lã Vọng trước làm nghề bán thịt,
Gặp Văn Vương mới biết tướng tài.
Chăn trâu Ninh Thích hát chơi,
Tề Hoàn nghe đã cho vời làm quan.
Tuổi chưa muộn lo toan còn kịp,
Thời đang vừa thu xếp đi cho!
Véo von đề quyết gọi thu,
Trăng hoa e lúc thơm tho chẳng còn!
Vòng hoa quỳnh đẹp giòn biết mấy,
Che lấp đi ai biết vẻ xinh!
Ghét ghen chúng chẳng thương tình,
E khi giập gãy tan tành biết đâu.”
Trách thời tiết thật mau thay đổi,
Nào lữa lần được mãi cho cam.
Hoa lan giờ đã hết thơm,
Hoa lài hoa huệ hóa làm cỏ tranh…
Bao nhiêu giống hương thanh sắc đẹp,
Ðều dốc đời đổi kiếp hôi tanh.
Không năng chải chuốt làm xinh,
Tại ai đâu, chỉ tại mình đấy thôi.
Lan ta tưởng đáng nơi tin cậy,
Có ngờ đâu bóng bẩy mà hư.
Theo đời bỏ vẻ đẹp xưa,
Ðua đòi cẩu thả cũng như mọi loài.
Tiêu bợ đỡ nịnh đời ra mặt,
Túi thuốc trừ nhét chặt thù du.
Ðem thân cầu cạnh bôn xu,
Còn đâu giữ được thơm tho tính trời.
Thói thường vốn theo thời thay đổi,
Ai giữ mình cho khỏi suy di!
Tiêu Lan còn chả ra gì,
Trách chi đến sói, kể chi đến nhài!
Riêng hoa quỳnh thật loài đáng quý,
Tới nay còn giữ vẻ năm xưa.
Hương còn thoang thoảng xa đưa,
Ðẹp còn nguyên vẹn vẫn như ngày nào.
Tự an ủi, theo vào mực thước,
Ngắm hoa đeo ngày trước còn xinh.
Khắp vùng trời đất mông mênh,
Tìm cho thấy bạn hữu tình mới thôi.
Linh phân dạy: “Quẻ coi tốt lắm!”
Chọn ngày lành ta sắm sửa đi.
Hoa quỳnh bẻ lấy phòng khi,
Cành thì làm bánh, cánh thì làm cơm.
Lộn ngà ngọc đóng làm xe cưỡi,
Kéo xe ta phất phới rồng bay.
Ði cho vắng mặt khuất mày,
Lòng lìa, thế bắt thân này phải xa!
Ðường thăm thẳm trông ra quanh quất
Hãy vòng xe qua đất Côn Luân.
Vang vang nhạc ngọc thét dồn,
Mây màu lấp lánh vây tròn trước sau.
Sớm bên trời bắt đầu rong ruổi,
Chiều hôm ta tới cõi cực tây.
Trước xe đón ngựa cờ bay,
Phượng hoàng vỗ cánh tung mây tuyệt vời.
Chốc ta lại qua chơi bể Cát,
Theo dòng sông bát ngát đỏ ngầu.
Thuồng thuồng sửa bến cho mau!
Bảo Tây hoàng phải bắc cầu ta sang.
Xa thăm thẳm cõi đường hiểm trở,
Dồn các xe giúp đỡ ta cùng.
Bất Chu lối tả đi vòng,
Hẹn ngày tháng chỉ qua vùng biển tây.
Ðều tay sắp giật dây cương ngọc,
Nghìn xe cùng một lúc ra đi.
Tám rồng bay lộn trước xe,
Cờ bay phất phới bóng che rợp trời.
Hãy ngừng bước, tạm nguôi dạ tủi,
Buông thần hồn lên cõi cao xa.
Múa Thiều hát khúc Cửu ca,
Tháng ngày thong thả liệu mà làm khuây.
Cất mình khoảng trời mây rộng rãi,
Chợt ngoảnh đầu trông lại quê hương.
Ngựa buồn, đầy tớ thảm thương,
Co ro nhớn nhác, ngại đường chẳng đi.
Vãn rằng:
Thôi than tiếc làm chi cho cực!
Biết ta đâu một nước không người.
Chính lành làm sức với ai,
Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo.

Read the rest of this entry »

 

Nguyễn Cẩm Xuyên – VỤ ÁN LỆ CHI VIÊN: MỘT THỦ ĐOẠN, MỘT ÂM MƯU TÀN BẠO

doisongnet.worspress.com

NHỮNG CÁI CHẾT OAN NGHIỆT

Ngày 27 tháng 7 năm nhâm tuất (1442),  vua Lê Thái Tông tuần du, duyệt binh ở Chí Linh. Đầu tháng 8 vua ghé thăm chùa Tư Quốc, Côn Sơn, Chí Linh nơi Nguyễn Trãi về ẩn dật sau khi bị thất sủng. Sau khi viếng thăm, vua yêu cầu Nguyễn Thị Lộ là thứ thiếp của Nguyễn Trãi cùng theo về kinh. Trên đường về, ngày mồng 4 tháng 8 âm lịch Lê Thái Tông chết đột ngột tại vườn vải (lệ chi viên) vốn là một ly cung được xây cất từ triều Lý trong một trại trồng vải thuộc làng Đại Lại, huyện Gia Định (nay là Gia Bình), tỉnh Bắc Ninh.

Xem bài viết gốc 5 774 từ nữa

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Sáu 23, 2014 in Sùng vũ môn

 

[Truyện ngắn của Mạc Ngôn] Cá chép vàng.

image

Trăng lên, mặt hồ Thanh Thảo như một tấm gương sáng lóng lánh. Bất ngờ, một con cá lao lên khỏi mặt nước vẽ một vòng sáng bạc rồi rơi xuống làm tan đi mặt gương phẳng lặng để lại những vòng sóng dập dờn.

Read the rest of this entry »

 

Nhãn:

Trạng thái

[Lí luận văn học] Nhà văn không phải nhà chép sử

Nhà văn không phải nhà chép sử.
-Sương Nguyệt Minh- 

image

Chân lý nhiều khi không thuộc về kẻ mạnh. Nhưng, thực tế từ xưa đến nay, người chiến thắng thường là người xác lập quyền viết sử. Người ta bảo: Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì. Nhưng một nửa sự thật không còn là sự thật nữa. Tôi nghĩ rằng: Nhà văn sáng tạo về đề tài lịch sử là đi đến ánh sáng và đi vào cả bóng tối bằng con đường nghệ thuật riêng để không chỉ tái hiện mà còn suy ngẫm, lý giải hiện tượng lịch sử và con người lịch sử.

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Năm 29, 2014 in Sùng vũ môn

 

Nhãn:

Trạng thái

[Truyện ngắn]Thạch tinh trong ruột một người. – Nguyễn Tuân

Sưu tầm từ blog của tiên sinh Vương Trí Nhàn.

image

“…đến lúc nào mà đá lại biết nói nữa, thì chúng bay sẽ chết hết ”  (Kinh Sám Hối)

” Dưới đây là một truyện ngắn thuộc dạng yêu ngôn của Nguyễn Tuân, thiên truyện ma quái bậc nhất mà lại chưa hề xuất hiện trong một tuyển tập nào của tác giả mấy chục năm nay.  Sở dĩ người sưu tầm tha thiết muốn nhiều bạn đọc cùng đọc lại truyện ngắn in ra lần đầu đúng 70 năm trước này vì hai lẽ.
 
Thứ nhất: nó có những đoạn cực tả về tình trạng thụ bệnh của một con người. Xã hội ta hiện  đầy rẫy những người bệnh tật, bệnh nổi có bệnh chìm có; và tổng quát lại có thể coi là một xã hội trong thời hậu chiến bệnh tật.  Chắc hẳn là sau những trạng thái bệnh bình thường, còn có biết bao nhiêu thứ bệnh kỳ lạ mà chỉ thời hiện đại mới có.  Hơn nữa, chữ bệnh theo “nghĩa đen”thường cũng tương ứng với một tình trạng bệnh tật về tinh thần,– chữ bệnh theo “nghĩa bóng”.    Với cả hai dạng đó, trước khi bàn chuyện kê đơn chữa chạy, đang cần những người biết miêu tả biết nói ra cho mọi người rõ về bệnh để cùng biết, cùng ngấm, cùng sợ.

 Thứ hai: truyện nói về sự báo oán báo thù cũng là cái thứ rất nặng nợ trong mối quan hệ giữa người với người thời nay.

Trong truyện ngắn dưới đây của Nguyễn Tuân, báo oán  là sự trừng phạt kỳ cục với những kẻ lừa dối dẫn đến cái chết của mấy người đàn bà trẻ tuổi. 

  Ngày nay đang nẩy sinh những tội ác trên quy mô lớn, động chạm đến số phận tài sản nhân cách hàng vạn hàng triệu người.  Các nạn nhân chỉ còn có cách cầu cứu tới những thế lực siêu nhiên. Người ta cùng mong đợi một sự báo oán ghê rợn tột cùng sẽ xẩy ra với bọn ác.  Niềm tin vào cái công lý mơ hồ huyền bí ấy hình như rất sâu sắc nơi Nguyễn Tuân. Nó buộc ông ở cuối truyện, mượn lời một nhân vật , phải công khai đứng ra khuyên mọi người qua các tình tiết éo le “tìm lấy một ý niệm trong đời sống đạo đức”.

 Tác giả thường bị mọi người coi là một ngòi bút ngang ngược, phá cách, duy mỹ, bất chấp cả những lẽ phải thông thường. Ở đây, qua việc tự nguyện đóng vai giáo huấn, ông có dịp thể hiện một sự “phá cách ngược” nghiêm trang hiếm thấy.

Chính nó là cái dư vị kéo dài  khiến tôi tin là thiên truyện đáng được đông đảo chúng ta đọc đi đọc lại và liên hệ với tình hình thời sự.

Chính truyện:
Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Năm 14, 2014 in Nguyễn Tuân.

 

Nhãn: ,

Trạng thái

Tình bạn Nguyễn Tuân – Ngô Tất Tố

image

Nhà văn Nguyễn Tuân sinh năm 1910, so với nhà văn Ngô Tất Tố (sinh năm 1894) thì thuộc thế hệ “đàn em”, nhưng sinh thời, hai ông đã từng có những kỷ niệm rất mật thiết với nhau, như bạn bè đồng trang lứa.

Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Năm 11, 2014 in Nguyễn Tuân.

 

Nhãn:

Trạng thái

Nguyễn Tuân – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh

(Sưu tầm từ blog Sơn Trung Thư Trang)

image

Từ nhỏ tôi đã đọc Nguyễn Tuân trong kho sách của bà chị cả tôi. Tất nhiên chẳng hiểu gì lắm! Nhưng cũng muốn bắt chước chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân: thích lang thang ngắm trời, ngắm đất. Thời kháng chiến chống Pháp, một mình đi trên đường Việt Bắc, lội suối, leo đèo, rất khoái – thực sự cảm thấy cái khoái “Đường vui” của Nguyễn Tuân quả là có thật. Hồi về Hà Nội học Đại học Sư phạm (1957), tôi có lần dắt xe đạp thử đi suốt đêm ở Hà Nội, từ phố này sang phố khác, bắt chước Nguyễn Tuân làm “Một người lữ hành trong thành phố chúng ta”, xem Hà Nội sinh hoạt về đêm như thế nào, thưởng thức những tiếng rao đêm có giọng điệu riêng của các hàng quà rong xuất hiện rất đúng hẹn cho mỗi thời khắc.

Read the rest of this entry »

 
 
Trạng thái

[Thơ] Gửi Trương Tửu – Nguyễn Vỹ

image

[Gửi Trương Tửu] ( Tác giả: Nhà thơ) Nguyễn Vỹ )

– Viết lúc đương say –

* *
Nay ta thèm rượu nhớ mong ai!
Một mình rót uống chẳng buồn say!
Trước kia hai thằng hết một nậm,
Trò truyện dông dài, mặt đỏ sẫm,
Nay một mình ta, một be con:
Cạn rượu rồi thơ mới véo von!
 
*

Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cái rác!
Kiếm được xu nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huynh hoang,
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả,
Rồi ngủ một đêm mộng với mê,
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!

*
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó,
Nhà văn An Nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút nói văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương,
Và nhìn chúng mình hì hục viết,
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh,
Đã rụng bao nhiêu mái tóc xanh!
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng Nguyên, anh Tể Tướng,
Rồi anh bên Võ, tôi bên Văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục, nát, thối?
Cho người làm ruộng, kẻ làm công,
Đều được an vui hớn hở lòng?
Bao giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho Lịch sử!
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhổm dậy cười say sưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên Đất Nước ?
Để cho toàn thể dân Việt Nam
“Đều được Tự do muôn muôn năm?”
“Để cho muôn muôn đời dân tộc”
“Hết đói rét, lầm than tang tóc?”
Chứ như bây giờ là trò chơi!
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc,
Triết lý con tiều, văn chương cóc!
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán văn ngày tháng qua!
 
*
Cho nên tôi buồn không biết mấy!
Đời còn nhố nhăng, ta chịu vậy!
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,
Bực chí, thành say mấy cũng vừa!
Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ!
Chơi nước cờ cao lại gặp bĩ!
Rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ,
Rốt cục chỉ còn… mộng với mơ!

– Viết rồi hãy còn say –

(B. Phụ Nữ)

 

Nhãn:

Trạng thái

[Nhạc] Không Sơn – Hà Đồ.

          Không Sơn – Hà Đồ.
空山 – 河图

image

雾深深山暮 路隐林深深.
wu shen shen shan mu lu yin lin shen shen 
Vụ thâm thâm sơn mộ lộ ẩn lâm thâm thâm.
Mây mù giăng, chiều trên núi, đường khuất dần, rừng sâu thẳm

露沉沉风低落花沉.
lu chen chen feng di luo hua chen 
Lộ trầm trầm phong đê lạc hoa trầm.
Sương rơi rơi gió lay cánh hoa rơi

空山新雨, 绘了几行路人.
kong shan xin yu  hui le ji xing lu ren 
Không sơn tân vũ, hội liễu kỷ hành lộ nhân.
Mưa xuân Không Sơn họa thành vài dòng người

晚钟鸣, 雁声声.
wan zhong ming  yan sheng sheng 
Vãn chung minh, nhạn thanh thanh
Tiếng chuông muộn, nhạn kêu vang

 青苔路, 又划了几道新痕.
qing tai lu  you hua le ji dao xin hen 
Thanh đài lộ, hựu hoa liễu kỷ đạo tân ngân.
Rêu xanh lối, lại họa  thêm vài nét mới

谁的脚步, 和雨闻.
shei de jiao bu  he yu wen 
Thùy đích cước bộ, hòa vũ văn.
Bước chân của ai hòa vào tiếng mưa

纸上墨荷, 染了几滴落尘.
zhi shang mo he  ran le ji di luo chen 
Chỉ thượng mặc hà, nhiễm liễu kỷ tích lạc trần.
Hoa sen trên giấy loang vài vết mực rơi

雨打梨花, 深闭门.
yu da li hua  shen bi men 
Vũ đả lê hoa, thâm bế môn.
Mưa vùi lê hoa, cửa khép chặt

影成双, 隔帘一灯.
ying cheng shuang  ge lian yi deng 
Ảnh thành song, cách liêm nhất đăng.
Sau rèm dưới ánh đèn ảnh thành đôi

这一盏酒香仔细闻.
zhe yi zhan jiu xiang zi xi wen 
Giá nhất trản tửu hương tử tế văn.
Một chén rượu thơm ngửi thật lâu

羁鸟旧林情最真.
ji niao jiu lin qing zui zhen 
Ky điểu cựu lâm tình tối chân.
Chim lồng rừng xưa tình chân thật

此间滋味与谁人.
ci jian zi wei yu shei ren 
Thử gian tư vị dữ thùy nhân
Nơi này tư vị dành cho ai
将往事, 一杯尽盛.
jiang wang shi  yi bei jin sheng 
Tương vãng sự, nhất bôi tẫn thịnh.
Đem chuyện cũ uống cạn chén này

你曾素手把香焚.
ni ceng su shou ba xiang fen 
Nhĩ tằng tố thủ bả hương phần.
Nàng từng chính tay đốt hương

无爱无恨亦无嗔
wu ai wu hen yi wu chen 
Vô ái vô hận diệc vô sân,
Không yêu không hận không giận

临窗控笔作雨声.
lin chuang kong bi zuo yu sheng 
Lâm song khống bút tác vũ thanh.
Trước song cửa đặt bút họa tiếng mưa

 笔难落, 竟未觉夜风清冷.
bi nan luo  jing wei jue ye feng qing leng 
Bút nan lạc, cánh vị giác dạ phong thanh lãnh.
Khó dừng bút, chưa cảm nhận hết gió đêm lạnh lẽo

不忘的乡音, 轻轻哼.
bu wang de xiang yin  qing qing heng 
Bất vong đích hương âm, khinh khinh hanh.
Vẫn chưa quên được hương âm khe khẽ ngân ấy

过窗纱, 忽见你背影深深.
guo chuang sha  hu jian ni bei ying shen shen 
Quá song sa, hốt kiến nhĩ bối ảnh thâm thâm.
Qua rèm cửa chợt thấy bóng dáng nàng thật rõ

笔一顿, 心头画已成.
bi yi dun  xin tou hua yi cheng 
Bút nhất đốn, tâm đầu họa dĩ thành.
Dừng bút vì bức họa trong lòng đã hoàn thành

茅屋檐下铜铃声.
mao wu yan xia tong ling sheng 
Mao ốc diêm hạ đồng linh thanh.
Dưới mái nhà tranh tiếng chuông đồng ngân vang

你煲的汤还要慢慢等.
ni bao de tang hai yao man man deng 
Nhĩ bảo đích thang hoàn yếu mạn mạn đẳng.
Nàng đun một ấm nước vẫn chầm chậm chờ

我接过这青竹凳.
wo jie guo zhe qing zhu deng 
Ngã tiếp quá giá thanh trúc đắng.
Ta nhận một chiếc ghế trúc xanh

 隔篱邀取问路人.
ge li yao qu wen lu ren 
Cách ly yêu thủ vấn lộ nhân
Cách bờ rào hỏi thăm lữ khách

酒香了, 汤浓得醇.
jiu xiang le  tang nong de chun 
Tửu hương liễu, thang nùng đắc thuần.
Rượu thơm nước nóng thật thuần khiết

这一碗饮尽, 谈笑风生.
zhe yi wan yin jin  tan xiao feng sheng 
Giá nhất oản ẩm tẫn, đàm tiếu phong sinh
Cạn hết chén này, chuyện trò vui vẻ

羁鸟旧林情最真.
ji niao jiu lin qing zui zhen 
Ky điểu cựu lâm tình tối chân.
Chim lồng rừng xưa tình chân thật

此间滋味与谁人.
ci jian zi wei yu shei ren 
Thử gian tư vị dữ thùy nhân.
Nơi này tư vị dành cho ai

将往事, 一杯尽盛.
jiang wang shi  yi bei jin sheng 
Tương vãng sự, nhất bôi tẫn thịnh.
Đem chuyện xưa uống cạn chén này

悲欢如雨, 寂寞空山冷.
bei huan ru yu  ji mo kong shan leng 
Bi hoan như vũ, tịch mịch không sơn lãnh.
Bi hoan như mưa, cô tịch Không Sơn lạnh

无爱无恨亦无嗔,
wu ai wu hen yi wu chen 
Vô ái vô hận diệc vô sân,
Không yêu không hận không giận

清风茧缕共此生.
qing feng chong luu gong ci sheng
Thanh phong kiển lũ cộng thử sinh.
Gió mát kết duyên với cuộc đời

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Mười Một 18, 2013 in Sùng vũ môn

 

Nhãn:

Trạng thái

Người nghèo làm Nhân Chủ

Trước đây có một người nghèo  họ Nhân tên Vương, quan địa phương cho rằng tên của người này hài âm với hai chữ “ Nhân Vương”, đồng nghĩa với  tiếng gọi bậc quân  chủ, cũng có nghĩa là phạm vào điều kiêng kị,  liền đem việc này bẩm báo với Hoàng thương.

Hoàng thượng nghe được, nghĩ bụng: Ta là Nhân Vương, vậy mà cũng có kẻ dám mang tên như vậy, quả nhiên là to gan lớn mật!”. Nghĩ đến đây, Hoàng Thượng liền ra lệnh cho quan địa phương bắt người nghèo này giải đến kinh thành.

Hoàng Thượng đích thân thẩm vấn, hỏi rõ nguyên do thì biết được người nghèo này thực chất không có cái gan lớn như vậy, càng không phải là cố ý phạm húy, cho nên cũng không giáng tội mà nói với anh ta rằng: “ Ta đem tên của ngươi hạ xuống một bậc, đồng thời cũng thêm vào một chút chữ nghĩa, sau này ngươi sẽ tên là  Nhân Ngọc.” Người nọ liền tạ ơn, nhưng về nhà lại đổi tên là Nhân Chủ. Quan địa phương thấy vậy lại tiếp tục bẩm  báo với Hoàng thượng.

Hoàng thượng lại cho người áp giải người này về kinh, long nhan giận giữ, phẫn nộ quát: “ Nhà ngươi muốn đối đầu với ta phải không!? Ta đã cho ngươi đổi tên thành Nhân Ngọc, vậy mà ngươi  không những không lĩnh hội hoàng ân, ngược lại còn đổi tên là Nhân Chủ. Bản thân ta đã là chủ vậy mà ngươi cũng muốn làm chủ nữa sao? Ta nghĩ ngươi chán sống muốn rơi đầu rồi!

Người nghèo kia nghe vậy thì sắc mặt không hề biến đổi, ung dung đáp: “ Xin Thánh thượng bớt giận, người là chủ tử, thần là thần dân. Người đã ban cho thần ân huệ, hiển nhiên thần phải đặt ân huệ đó lên trên để tôn thờ, để quỳ bái, làm sao có thể giắt nó vào thắt lưng của mình?*

Hoàng thượng nghe xong, nhất thời chuyển giận thành vui, liền thả người nghèo này về.

Mạn đàm:

 

Người nghèo này kính trọng Hoàng đế để đáp ứng tâm lý phù phiếm của ông, không những có thể tránh khỏi họa sát thân mà còn giữ được tên của mình.

Chú thích: * Chữ Vương (王)có thêm một nét chấm ở bên sườn, tạo thành chữ Ngọc (玉). Nhưng nếu chữ Vương có thêm một chấm trên đầu thì sẽ tạo thành chữ chủ (主). Người nghèo coi dấu chấm này là hoàng ân mà Hoàng thượng ban cho, nên khi đổi tên nếu đổi thành chữ Ngọc cũng có nghĩa là mang Hoàng ân giắt vào thắt lưng, phần hạ bộ; Nhưng nếu đổi tên thành chữ Chủ cũng có nghĩa là mang Hoàng ân đặt lên trên đầu, tỏ ý tôn kính.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 19, 2013 in Truyện ngắn

 

Con ếch ven đường

Giữa bãi cỏ bên cạnh ruộng lúa có một con đường. Một ngày nọ, có một con ếch đang nghỉ ngơi nhàn nhã tại đó, đột nhiên nó nghe thấy tiếng gọi:” Lão đệ, lão đệ”, nó bèn lười biếng mở mắt ra, phát hiện trong ruộng lúa có một con ếch khác, con ếch đó ân cần nói:” Lão đệ, ngươi ở nơi này quá nguy hiểm, chi bằng hãy đến ở chung với ta. Trong ruộng lúa, ngày ngày có rất nhiều côn trùng để ăn. Một mặt bảo vệ hoa mầu, mặt khác có thể bảo vệ bản thân, tránh khỏi nguy hiểm. Read the rest of this entry »

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2013 in Truyện ngắn

 
Trạng thái

Hai người mù

Thành phố mới có thêm một người mù của nước Tề, người này tính tình bộp chộp nóng nảy, ở trên đường luôn ngẩng đầu đi thẳng, nếu người đi đường không may bị hắn đụng phải, hắn sẽ chửi ầm lên: “ Mắt người bị mù sao!?” Người đi đường thấy hắn bị mù cũng không thèm so đo.

Về sau, lại có thêm một người mù đến từ nước Lương, người này tính tình càng thêm táo bạo, ở trên đường lao đi phầm phập, chẳng may lại đụng thẳng vào anh mù của nước Tề, khiến cho cả hai người đồng loạt ngã lăn quay ra đất. Anh mù nước Lương lồm cồm bò dậy, tức giận mắng: “ Mắt người bị mù à!?”, anh mù nước Tề cũng bò dậy, quát: “ Mắt ngươi bị mù sao?”. Hai người mù cãi nhau đến khản cả giọng, ầm ĩ vô cùng. Người qua đường thấy vậy liền bu lại xem, cảm thấy hết sức buồn cười.

Mạn đàm:

Trong cuộc sống, có một số người không biết được khuyết điểm của bản thân trong khi người ngoài cuộc lại nhìn thấy rất rõ, tệ hơn nữa, vì muốn che giấu nhược điểm của mình mà họ sẵn sàng dùng khuyết điểm đó để gán lên người khác.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2013 in Truyện ngắn

 

[ĐKPP] [71] Ngoại truyện – Những ngày Tiểu Kim nghỉ phép

Nhược Linh

Đến Khai Phong phủ làm nhân viên công vụ

[Ngoại truyện – Chương 71] Những ngày Tiểu Kim nghỉ phép

Biên tập: Candy

Dành tặng ss Nonchalance, cảm ơn ss vì đã ủng hộ em từ truyện này qua truyện khác, cắm chòi ở nhà em dù tốc độ edit siêu rùa, dành thời gian mò lỗi của ĐKPP giúp em. *ôm ôm hun hun*

Xem bài viết gốc 6 890 từ nữa

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 14, 2013 in Sùng vũ môn

 
 
Tâm hồn đẹp Việt Nam

You matter. Be kind to yourself.

MA & MK

stories, interest, hobby, music, travel, books

Blog Chuyện Bâng Quơ

Muốn viết truyện hay phải liều viết truyện không hay trước đã.

Nguyễn Huy Hoàng

"Và trái tim không chết khi người ta nghĩ nó phải chết"